Người viết: QUÂN NGUYỄN
Bài số 1025-1634-347-v7030606
*
Quân Nguyễn
Người viết: QUÂN NGUYỄN
Bài số 1025-1634-347-v7030606
*
Tác giả tên thật là Quân Nguyễn, state parole officer ở Santa Ana, đến Mỹ từ năm 87, hiện cư ngụ tại thành phố Anaheim, CA. Đây là bài Viết Về Nước Mỹ thứ ba của ông.
*
Ngày còn nhỏ, tôi trông thật gầy gò, ốm yếu, tính tình lại nhút nhát lắm. Mẹ tôi sanh tôi thiếu tháng, chẳng biết sao mà hồi đó tôi lại sống được cũng lạ! Lớn lên một chút, chừng năm sáu tuổi, tôi đã biết thế nào là ăn đòn, vì bố tôi rất dữ đòn đối với con cái, một phần vì thích hàng xóm thấy mình dữ với vợ con, còn phần nữa thì tôi không biết, hoặc chẳng muốn biết làm gì cho khổ! Bố tôi thường nói với anh em tôi trước mặt lũ trẻ hàng xóm rằng, "Hễ đứa nào mách tao, vì bất cứ lý do gì, thì tụi mày ăn đòn!" Vì vậy anh em tôi khi chơi với chúng bạn lối xóm, luôn luôn phải chịu lép vế, thua thiệt để khỏi về nhà ăn đòn! Tôi còn nhớ năm lên 9, có lần, thằng Lê, nhỏ hơn tôi một vài tuổi, một bữa buồn tình bảo tôi, "Nếu mày không cõng tao ra tới đầu hẻm, thì tao mét ba mầy, mầy uýnh tao". Thế là tôi đành phải khòm lưng cõng nó ra tới đầu hẻm rồi hai đứa đi bộ về. Thà vậy còn hơn bị ăn đòn liệt giường! Tôi luôn biết thân tôi, nên ngoài giờ đi học, tôi ở luôn trong nhà chứ không dám ló mặt ra đường chơi vơi ai. Còn thằng em kế tôi thì chẳng khôn, nhưng được cái lỳ đòn. Nó hay ra đường chơi với chúng bạn mỗi lần bố tôi đi vắng, mà bố tôi thì luôn tìm cách rình bắt con cái rong chơi ngoài đường, để đem về đánh cho bò lê bò càng! Mà lần nào cũng vậy, tôi luôn luôn chịu chung số phận hẩm hiu của nó, vì bố tôi sau khi đánh nó xong, ông luôn tìm lý do để đánh tôi, "Mày không biết bảo em!"
Năm 11 tuổi, tôi vào học trường LaSan HV. Học trò chỉ cần phạm một lỗi nhỏ thôi, là roi mây vun vút vào lưng, vào đít! Nói cho đúng ra ngày ấy, ngoài ốm yếu ra, lại bị đòn nhiều quá, nên tôi trở nên hèn nhát lắm. Âu cũng là số phận của tôi những ngày thơ ấu!
Năm 15 tuổi, vừa học xong lớp chín, tôi xin bố tôi cho tôi đi học trường khác. Có lẽ bố tôi trong một phút đã nhìn ra mấy "Sư huynh" cũng chẳng tốt gì, nên đồng ý ngay. Tôi cũng dám bày tỏ cho bố tôi biết rằng, nếu ông cứ tiếp tục đánh đập con cái "như kẻ thù", thì tôi sẽ bỏ học để đi lính, vì thời đó, 16 tuổi có thể tình nguyện đi Biệt động quân được rồi. Bố tôi có vẻ nhượng bộ đôi chút!
Ngày ấy biết mình vừa ốm yếu, nhút nhát, lại hèn nhát. Lại tức mình bị bè bạn hiếp đáp, hay bị mấy thằng du đãng "vườn", cậy gần nhà, chận đường gây hấn, hiếp đáp, khi mình đi học hoặc có việc phải đi ngang qua vùng của nó, tôi quyết định phải đi học võ. Cũng may bố tôi chẳng quan tâm gì về chuyện đó cả. Sau hai tháng tập nhu đạo, tôi thấy chán phèo vì chả có đấm đá gì hết, ngoại trừ học được vài cách té mà tôi vẫn còn dùng được cho tới bây giờ. Thời đó, Lý Tiểu Long, Khương Đại Vệ, Địch Long đang nổi tiếng trên màn ảnh, và ai ai cũng thích bàn chuyện quyền cước, đấm đá. Tôi liền bỏ nhu đạo để đi học Tae Kwon Do với thầy Đặng Huy Đức ở võ đường Hwa Rang Kwan, trong con hẻm đền Phú Thạnh đường Lê văn Duyệt. Năm ấy, tôi còn nhớ mãi, khi tôi học thầy được hai tháng thì nghe mấy anh lớn nói chuyện với nhau, thầy Đức vừa được lên ba đẳng (1971). Thời ấy, chỉ có vài thầy được đào tạo ở khóa đầu tiên bởi võ sư Đại Hàn, là thầy Đức, thầy Bình, thầy Thông, thầy Vân, và thầy Nho mà thôi.
Về phần tôi, nhờ say mê tập võ một tuần ba ngày mỗi chiều Hai, Tư, Sáu (hoặc Ba, Năm, Bảy), tôi trông bớt ốm yếu hơn xưa. Mỗi lần tập là hai tiếng chia đều cho ba phần: làm ấm người (warm up), bài quyền (patterns), và song đấu tự do (free sparing). Vì mỗi ngày có nhiều lớp với giờ giấc khác nhau, nên các võ sinh đai thấp như tôi thường được dạy bởi các anh lớn từ đai nâu đến một đẳng. Thầy Đức hầu như chỉ dạy mấy anh lớn đai đen, và lúc ấy cũng đang bận rộn hoàn thành cái võ đường thứ hai lớn hơn ở đường Hoàng Hoa Thám bên Gia Định. Vì vậy tôi thường chỉ gặp thầy những khi cần đóng tiền học phí mỗi tháng mà thôi. Ngày ấy, tôi mê tập võ lắm, mặc dù rằng hầu như ngày nào sau phần song đấu tự do, tôi đều bị đau không chỗ này thì chỗ nọ, như khi thì mấy ngón tay, cổ tay, cùi chỏ, bắp tay, vai, ba sườn, lưng, bắp vế, đầu gối, ống uyển, mu bàn chân, ngón chân….vì bị đối thủ đá trúng, đấm trúng, hay do đôi bên va chạm nhau trong khi song đấu. Có lần tôi phải đấu với một võ sinh vừa giỏi vừa lớn hơn tôi. Y chạy vòng vòng như mặt số đồng hồ, làm cho tôi phải bị đứng giữa như cái kim đồng hồ, vừa tấn back-stand để thủ thế, vừa phải xoay theo hướng chạy ngược chạy xuôi của y. Bất thình lình, đối thủ của tôi hét lên một tiếng rồi bay vô đá một cú sliding side-kick chân trước vô sườn trái của tôi. Tôi bị văng ra phía sau khoảng một thước, rơi xuống chân trong thế tấn back-stand, hai chân chỉ bị nhổ khỏi mặt đất mà thôi, chứ không té. Cú đá đó làm tôi bi đau sườn trái hết ba tháng trời! Những chuyện đại loại như vậy, ít nhiều làm cho võ đường Hwa Rang Kwan thời ấy nổi tiếng vì võ sinh đấu giỏi (dữ). Vả lại thầy Đức luôn đòi hỏi võ sinh của ông phải giỏi cả ba phần: quyền, đấu, và công phá, nếu không trong khi đấu sẽ bị đối thủ cho "ăn đòn" hoặc là bị chấm rớt khi thi lên đai. Vì chính ông, năm 69, khi đem chuông đi đấm nước người ở Hồng Kông, ông đã đoạt giải vô địch Á châu cho cả ba phần đó. Ngày ấy, tôi để ý thấy có một vài anh lớn, khi ra thi đấu, đầu cạo trọc, mắt trợn lên, thét lên om xòm, để "hù" đối thủ. Tôi thì không đến độ phải cạo trọc đầu, nhưng cũng làm mặt "ngầu" như đang sắp giết người, nhờ vậy thỉnh thoảng cũng làm một vài đối thủ của tôi chột dạ chẳng dám ra đòn, chỉ lo thủ, và đỡ…Còn nói chung thì chẳng ai sợ ai cả, vì nếu sợ đòn thì đi học võ làm gì!
Năm 73, vì phải lo tương lai, tôi nghỉ tập võ, để học thi tú tài. Đậu xong tú tài, lại nghĩ đến quê hương, nên tôi tình nguyện đăng lính, để rồi chẳng còn có cơ hội nào gặp lại thầy Đức nữa. Tôi nhớ lần chót gặp thầy, thì thầy mới có một đứa con trai nhỏ, độ 3, 4 tuổi, mập ù, trắng trẻo, trong bộ võ phục tý hon, mà mấy anh em võ sinh thường bế cõng nó, và bà xã thầy, lúc ấy đang có bầu đứa thứ hai.
Rồi cuộc chiến tranh 30 năm khốc liệt, bỗng lụi tàn trong vài ngày. Đất nước thân yêu, phút chốc trở thành một nhà tù lớn cho cả dân tộc. Tôi trông vẫn gầy gò ốm yếu như xưa, nhưng chợt nhận thức ra rằng mình vẫn còn hèn nhát lắm! Dù biết rằng quãng đời trai trẻ của mình đang tàn tụi trong vô vọng theo năm tháng với tù tội, cơm áo, bệnh tật và niềm căm phẫn, tôi vẫn không sao có đủ can đảm để tự giết tôi cho xong. Thằng bạn năm xưa có lần cản tôi rượt theo ba thằng nhóc, cựu trung sĩ pháo binh ở Pleiku/Komtum, nó can đảm hơn tôi, tự đâm vô ngực, rồi nằm chờ cho máu chảy tới chết, chẳng biết rằng vì tự tử chống cộng, rồi thì Cha không cho làm phép xác, Việt cộng không cho chôn bằng hòm! Âu cũng là cái hèn nhát lớn nhất của đời tôi!
Rồi từ đó chẳng hiểu vì sao, nhiều năm sau tôi vẫn thỉnh thoảng ghé thăm đền Phú Thạnh, rồi nhìn lên căn gác nơi thầy Đức và gia đình sinh sống năm xưa, như muốn tìm kiếm ai! Có người hỏi tôi, "Anh kiếm ai"" Dù biết thầy Đức di tản từ 75, tôi vẫn cứ trả lời, "Tôi kiếm thầy Đức" Tôi luôn luôn biết trước câu trả lời sau đó của người hỏi tôi, nhưng …có lẽ từ ngày "giải phóng", chả có mấy ai còn bận tâm tự hỏi mình sao đang làm những chuyện "ngông cuồng" như vậy! Đó là tại sao, sau cái ngày đó, nhiều người đã quên mất vai vế, lương tâm, liêm sỉ, để trở nên bon chen, rồi lừa lọc, mưu hại lẫn nhau…chỉ để sống còn. Còn tôi, nhờ học được câu nói của người xưa, "trong lúc hoạn nạn, biết tự thủ, chịu đọc sách, sau có thể là trụ thạch triều đình". Tôi biết rõ thân phận, phần số của tôi, nên lúc nào cũng cúi mặt nhìn xuống, lại dấu mình trong nhà mà vui đọc sách vở đạo lý Thánh Hiền, tiểu thuyết ngoại ngữ, thơ Nguyên Sa, tử vi…để chờ cho qua cái vận rủi của đời mình. Chẳng phải vì tôi muốn sau này sẽ tiếp tay cho bọn phong kiến mà hà hiếp dân lành. Tôi chỉ muốn thực hiện có một nửa câu nói trên của người xưa mà thôi. Âu cũng là một lý do tôi còn sống sót an toàn đến ngày nay!
Mà cuộc đời ở đó, giống như một giòng sông đen ngòm, đẫm máu, hôi tanh. Nó cứ lặng lẽ cuốn trôi theo, vùi dập xuống muôn triệu những đời người bất hạnh bằng ngục tù, sợ hãi, đói rét, bệnh tật, bất công… mà đưa đến hàng triệu cái chết âm thầm, tức tưởi trong lao tù, cũng như ngoài bể sâu! Riêng tôi, nhờ hiểu câu nói của người xưa, "sông có khúc người có lúc", nên cắn răng cam chịu với số phận hẩm hiu, và âm thầm sống cho qua quãng đời đầy đau khổ của tuổi trẻ, để chờ đợi một ngày mai!