Tác giả Lê Tường Vi (hình trên) cư dân San Diego, nhiều năm là kỹ sư cho một hãng tele-communication, tự sơ lược tiểu sử: “Tôi qua US lúc 14 tuổi. Cả gia đình còn kẹt lại VN vào lúc đó. Tôi bảo lãnh cha mẹ sau khi ổn định và chúng tôi đoàn tụ năm 1995.”
Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ năm thứ tư, Lê Tường Vi được bình chọn vào chung kết, với hai bài đặc biệt: “Một Mình Nuôi Con” cho thấy một bà mẹ hiểu biết nghịch cảnh và đương đầu. “Ba Thế Hệ Một Nhà” kể về việc nối lại tình yêu thương từng bị ngăn cách giữa mẹ con, bà cháu.
Theo tin từ cuộc họp mặt phát giải thưởng, ra mắt sách Viết Về Nước Mỹ 2005 tối chủ nhật 28-8, tác giả Lê Tường Vi đã chính thức được trao tặng Giải Chung Kết Duy Nhất Trong Năm.
Trân trọng chúc mừng.
*
Cái thú sưu tầm thơ văn của tôi bắt nguồn từ thuở nhỏ. Đọc bài thơ hay hoặc nghe câu tục ngữ thích thú, tôi ghi chép lại trong quyển sổ bìa dày tôi kí cóp dành dụm cả mấy tháng tiền quà mới mua được.
Lục bình bông tím
Điên điển bông vàng
Điên điển mọc ở đất làng
Lục bình trôi nổi như phường hát ngao ... a` ơ
...
Con mất cha ăn cơm với cá
A` ơi.. Con mất mẹ liếm lá đầu đường...
Đó là những câu ru em ngọt ngào của Mẹ tôi trong buổi trưa hè oi bức, được tôi nắn nót viết lại cẩn thận như lúc viết bài Trấn Thủ Lưu Đồn nộp cho cô giáo. Tôi gò từng nét bút, tô từng màu mực để tạo nét đặc biệt cho quyển sách với tất cả khả năng trang trí của tuổi mười ba.
Năm 1975, cả gia đình tôi dắt díu chạy loạn từ miền Trung vào SàiGòn, rồi tôi một mình lưu lạc tới nước Mỹ. Trong túi hành lý nhỏ trên vai có quyển sách chép thơ ca này. Đây là kỷ vật thơ dại đáng kể nhất tôi còn mang theo được bên mình.
Quyển sách chép thơ trở thành cuốn nhật ký, bạn trung thành của con bé 14 tuổi. Trong những ngày ấy, tôi trút biết bao dòng tâm sự đau buồn, hờn tủi vô những trang giấy trắng còn lại của tập thơ. Sau này nhìn lại, những trang sách vẫn còn in dấu nước mắt, nét chữ nhòe nhoẹt. Hồi tưởng lại tâm trạng ngày xưa, tôi vẫn còn cảm thấy xúc động.
Trong cuộc sống tất bật vừa làm vừa học, tôi chẳng còn thời giờ để than thở với nhật ký nữa. Quyển thơ dần dà lui xuống đáy thùng sách mang theo khi dọn nhà. Những lúc hì hục khiêng thùng sách ra xe hay lên xuống cầu thang mỗi chổ ở mới, tôi vẫn nghĩ phải bỏ bớt những quyển không thông dụng. Nhưng sau bao lần cầm lên, tôi vẫn không nỡ quăng tập thơ cũ kỷ này. Tôi nhét nó xuống đáy thùng và tiếp tục mang nó theo cho tới khi ổn định gia cư.
Quyển sách từ lâu nằm khuất trong góc của kệ sách và dường như không còn ảnh hưởng nào trong cuộc sống bận rộn của gia đình. Cho tới khi con trai tôi chào đời, nhờ nó, tôi tìm lại được những bài ca dao hát ru ngày xưa của mẹ, mang ra làm vốn ru con khi cháu còn nhỏ. Bận rộn đời sống làm quyển sách lại lui vào bóng tối, khuất lấp trong kệ sách.
*
Tôi có việc làm tương đối yên ổn trong hãng tele-communication tại một thành phố miền nam Cali. Số dân gốc Việt trong hãng không nhiều, nhưng thỉnh thoảng vẫn hẹn nhau đi ăn trưa, trao đổi tin tức và tán gẫu thời sự. Chúng tôi tương ái và tôn trọng lẫn nhau.
Một hôm, đang làm việc bỗng điện thoại trên bàn reo lên. Nhìn tên người hiện ra trong khung kính nhỏ của điện thoại là Mary Ann C.. Ủa, cô này là thư ký riêng của sếp lớn trong hãng, gọi tôi có việc gì vậy kìa"
Ngạc nhiên, tôi nhấc lên:
- Hello, Vi đây.
Tiếng nói phía kia có phần khẩn cấp:
- Chị ơi, nói giùm với bà Ngoại em đi.
Cách phát âm thiếu dấu của những người ngọai quốc nói tiếng Việt của Mary Ann làm tôi ngạc nhiên vì trước giờ tôi không hề biết cô là người Việt. Cứ ngỡ cô là người Hawaii hay người xứ Thái bình dương Nam Á nào đó. Chưa kịp trả lời, cô hấp tấp nói tiếp bằng tiếng Anh:
- Please tell Grandma don't worry. I already paid the electric bill yesterday.
Và cô bấm thêm đường dây thứ ba, tiếng một bà lớn tuổi miền Nam, giọng hốt hoảng tuôn ra:
- Họ đòi cúp điện của Ngoại con ơi. Làm sao đây" Làm sao đây con"
Tôi chen vào:
- Thưa bà, cô ấy nói đã trả tiền điện rồi. Bà yên tâm.
Tiếng bà cụ ngừng lại vài giây, thở phào:
- Trả rồi hả. May quá!
Và bà thắc mắc:
- Cô là ai vậy"
- Dạ, con là người làm chung sở với Mary Ann.
- Ủa, có người Việt làm chung với con Ngọc Lan sao" Cô ơi, nói giùm có nhiều giấy tờ gởi nhưng tôi không hiểu hết. Cô nói giùm cho tui đi.
Thì ra Mary Ann còn có tên Việt là Ngọc Lan. Tôi tiếp tục thông dịch giùm hai bà cháu thêm khoảng 15 phút. Mary Ann nói cuối tuần cô sẽ ghé qua thăm cụ và xem xét lại giấy tờ. Sau khi bà cụ cúp máy, cô cám ơn tôi rối rít, nói cô cố gắng giải thích nhưng trong cơn bối rối và thêm chứng nặng tai, cụ lại càng không hiểu nổi thứ tiếng Việt đơn sơ của cô. Quýnh quá, cô mở quyển điện thoại niên giám của hãng, thấy tôi họ Lê, cô gọi đại cầu may. Tôi an ủi, bảo cô khi nào cần nói chuyện với bà, tôi sẵn sàng thông dịch giùm, không phiền hà chi cả.
Từ đó tôi trở thành cái cầu ngôn ngữ của hai bà cháu Mary Ann. Tôi cho số điện thoại riêng của mình, Mary Ann lồng trong điện thoại của bà cụ, và dặn khi cần thiết cứ bấm số 2 tới tôi nhận ngay.
Qua lời than thở của cụ Quế, tôi lờ mờ hiểu hoàn cảnh của bà. Cụ Quế sống một mình trong khu cư xá toàn là dân Mễ tây cơ và da đen. Cụ sợ lắm, đóng cửa im ỉm cả ngày. Mary Ann mỗi tháng ghé qua, chở bà đi chợ mua mấy thứ cần thiết. Sau vài lần nói chuyện, bà hỏi thêm về tôi, và mời tôi ghé thăm bà nếu có thời giờ.
Với Mary Ann, dần đà, chúng tôi thân nhau hơn qua những lần nói chuyện. Có hôm cô nói bà ngoại em mong gặp chị lắm. Hai bà cháu mấy chục năm nay không sao trò truyện được, nếu mà có chị... Nghe Mary Ann nói, thấy thương, tôi quyết định theo cô đi thăm cụ bà Quế. Cô vừa lái xe vừa kể lại hoàn cảnh gia đình.
Mẹ cô, bà Lý, theo chồng thứ hai về Mỹ năm 1970 với hai cô con riêng, để lại người con trai lớn với bên chồng thứ nhất. Mary Ann giàn giụa nước mắt khi nhắc lại cảnh cô bị dứt tay khỏi người anh trai 8 tuổi ở phi trường Tân Sơn Nhất. Người chồng Mỹ gốc Phi này không thích hai cô nhỏ nói tiếng Việt nên ông ta hay đánh hai em và bắt phải nói tiếng Anh. Bà Lý không dám can ông chồng nên hai cô nhỏ sợ ông ta lắm.
Nhớ bà Ngoại, hai cô nhỏ đòi về Việt Nam và bị đòn mỗi lần khóc nhớ bà. Một thời gian sau, ở Việt Nam cụ Quế nhờ người quen làm giấy tờ, lần mò đi tới Hawaii kiếm con gái và hai cháu. May là ông Mỹ này ở trong quân đội nên sự tìm kiếm không khó khăn lắm. Bà lọt tới đảo Oahu, không biết tiếng Anh nên loay hoay ngồi ở sân bay cả ngày. Nhân viên phi trường kiếm được người Việt Nam thông dịch và gọi taxi chở bà tới địa chỉ nhà con gái. Cô bé Mary Ann - Ngọc Lan- mở cửa thấy bà Ngoại mừng quá la lên, ôm bà chặt cứng, lôi vào nhà và kêu em, mẹ ra đón bà.
Ông con rể Mỹ không ưa bà ra mặt. Sự hiện diện của bà làm cho đời sống ông ta mất trật tự theo ý y muốn. Những vết bầm trên người Ngọc Lan và em gái làm cụ Quế tức giận. Cụ liên tiếp bảo con gái cụ hỏi “thằng Mỹ” tại sao đánh hai đứa nhỏ nhưng bà Lý không dám hỏi. Cụ lôi hai đứa nhỏ, chỉ vào vết bầm và hỏi y bằng tiếng Việt:
- Tại sao đánh hai đứa nhỏ"
Cụ liên tiếp nói “Phú Lít” làm tên kia nhột.
Visa tạm trú tại Hawaii được cấp 2 tháng, “thằng Mỹ” liên tiếp nhắc cụ sắp xếp hành lý ra về trong những ngày sắp hết hạn. Thương hai cháu quá, bà cụ liều ở lại, không chịu ra phi trường.
Ngọc Lan kể bằng tiếng Anh , thỉnh thoảng chen vô vài tiếng Việt đớt đát của cô làm tôi mường tượng lại hoàn cảnh đáng thương của ba bà cháu.
- Thằng Mỹ bắt Mẹ đánh tụi em vì biết bà Ngoại không dám gọi “Phú Lít” bắt Mẹ. Bà Ngoại tức “thấy mẹ nó”.
Đôi khi cô chen vào từ ngữ Việt học từ cụ Quế chất phác làm có lúc tôi suýt bật cười.
- Hết hạn visa, thằng Mỹ đem vali bà Ngoại quăng ra đường khi bà không chịu đi về VN. Em khóc quá, nó đòi đánh em. Tối đó bà Ngoại ngủ ngoài trời, em đem bánh mì cho Ngoại ăn bị nó cú vô đầu đau lắm.
Mary Ann kể là hôm sau có người hàng xóm đem bà Ngoại vô nhà. Họ gọi sở di trú tới đưa bà đi. Nơi đây có người Việt thông dịch. Cụ Quế trình bày và nhất định đòi ở lại Mỹ với các cháu. Sở di trú bối rối chưa biết tính sao thì may quá, có người đàn ông góa vợ, cần vú em cho 2 đứa con của ông ta hỏi cụ Quế có muốn làm không.
- Bà Ngoại phải đi “ở đợ” đó. Nhưng bà ra điều kiện là mỗi chủ nhật bà nghỉ làm tới thăm cháu ngoại. Có khi thằng Mỹ dắt tụi em đi mất để làm bà ngồi ngoài đường chờ tới tối luôn.
Thấy cô cháu mang được tôi đến thăm, cụ Quế rất mừng. Cụ đã hơn 80 tuổi, người còm cõi, hơi bị lãng tai, nghe không rõ, nhưng lại ưa trò chuyện. Có lúc bà cụ kể thêm:
- Cô nghĩ xem, đang có nhà cửa hàng quán ở Việt Nam, tôi bỏ hết đi ở đợ chớ rời hai đứa nhỏ tôi không đành. Con Lý tệ quá, không dám bênh con, cứ sợ thằng Mỹ quá đi. Tôi làm công cho người ta tới khi hai đứa nhỏ lớn lên. Muốn trở về Việt Nam thì người ta nói mất nước rồi, làm sao mà về" Tôi khóc hết nước mắt cô ơi! Tôi đâu có biết đọc báo Mỹ mà biết tin mất nước. Ông chủ nhà cứ dọn đi mấy chỗ hẻo lánh làm tôi có gặp người Việt nào mà biết. Khổ chưa! Mười năm làm công ròng rã, sau đó thằng Mỹ theo con đàn bà khác, bỏ con Lý. Nó khóc với tôi, xin lỗi, ăn năn. Tôi thương con gái khờ dại, biểu nó thôi con, ráng làm lại cuộc đời. Tôi đưa hết tiền dành dụm trong 10 năm biểu nó mua căn nhà nhỏ mẹ, con, bà, cháu cùng nhau ở. Ai đời nó kể thằng Mỹ sao đó, tụi nó dắt nhau đi chơi xài sạch bách tiền tôi cô ơi! Tức quá tôi muốn tự tử chết cho rồi. Sao số tôi vô phúc quá! Con Ngọc Lan khóc, níu áo tôi nói Ngoại ơi, đừng chết Ngoại ơi làm tôi cầm lòng không nỡ chết.
Cụ Quế nhờ cơ quan chức trách kiếm nhà ở và xin phụ cấp an sinh xã hội khi cụ 65 tuổi. Cụ ở nơi này tự đó. Mỗi cuối tuần cụ đón mấy chuyến xe bus tới chùa Việt Nam, nghe tụng kinh, làm công quả cho qua số kiếp hẩm hiu. Cụ tránh quen biết thân thiết với ai vì mắc cỡ với thiên hạ về con gái mình. Bà Lý thỉnh thoảng vẫn gọi điện thoại mượn tiền Mẹ và trách móc khi cụ nói không còn tiền nữa.
Ngọc Lan mỗi khi nhắc tới Mẹ cô vẫn nói:
- Mẹ em hư lắm. Mẹ không thương bà Ngoại hay thương ai hết.
Nghe chuyện cụ Quế và Ngọc Lan kể, tôi ái ngại cho hoàn cảnh hai bà cháu, nên cố thu xếp đi với Ngọc Lan mỗi lần cô về thăm bà. Bà cụ thường kể cho tôi nghe chuyện quá khứ. Chắc bà cụ biết là qua tôi làm cầu nối, Ngọc Lan có thể biết thêm về lai lịch của cô.
Theo bà cụ kể, cha bà người Tàu Hải Nam, trôi giạt qua Việt Nam lấy mẹ bà người Việt. Ông mở tiệm thuốc Bắc, thương yêu các con và thường nấu cho gia đình ăn nhiều món tàu quê hương của ông. Sau khi lấy chồng, bà sanh một con gái. Chồng bà chết trong cơn uống rượu say gây gổ đập lộn với ai đó.
Để tang chồng ba năm, bà trở về nhà cha mẹ và từ đó bôn ba nuôi con trưởng thành. Ngọc Lan rất giống bà nên tôi biết rằng thời trẻ cụ bà Quế có nhan sắc mặn mà. Cuộc đời người đàn bà góa nuôi con ở Việt Nam thời thập niên 40s chắc chắn rất truân chuyên. Tôi hỏi sao không lấy chồng tiếp, cụ lắc đầu quầy quậy:
- Thôi cô ơi, một lần lấy chồng tởn tới già. May quá ổng chết, chớ ổng sống lâu chắc tui chịu hổng thấu nhà chồng.
Ngọc Lan không đủ tiếng Việt để hiểu trọn những chuyện bà ngoại cô kể. Trong những lần viếng thăm cụ Quế, nhờ tôi thông dịch qua lại, hai bà cháu trò truyện với nhau dễ dàng hơn, Ngọc Lan biết thêm lai lịch của cô và tôi có dịp biết thêm vài khía cạnh đời sống Việt Nam thời xưa.
Trong những dịp viếng thăm cụ Quế, tôi có dịp tìm hiểu Ngọc Lan hơn. Cô rời quê hương lúc tuổi quá nhỏ. Tiếng mẹ đẻ còn không biết, làm sao biết gì về quê mẹ. Tôi lắng nghe mỗi lần cô bùng cơn giận khi nhắc lại những đòn thù của người cha kế và sự dửng dưng của bà mẹ vô tâm.
Ngọc Lan nói trước khi gặp tôi, cô tránh tới khu người Việt vì cô cảm thấy lạc lõng. Đó cũng là lý do cô lạnh tanh, lảng tránh sinh hoạt của đám nhân viên gốc Việt trong hãng. Bao năm ẩn ức, có bạn để chia sẻ tâm sự, Ngọc Lan có vẻ dịu dần lại. Tôi lựa lúc chị em thân thiện, kể chuyện quê mẹ Việt Nam cho cô nghe, khi thì chuyện đất đai, lịch sử, con người, lúc thì chuyện văn hoá, cảnh đẹp, món ăn...
Cùng nhau, chúng tôi gỡ dần những gút mắc trong quá khứ của Ngọc Lan. Cho đến một hôm, trước khi tới thăm cụ bà Quế, chính cô yêu cầu tôi cùng cô ghé qua khu Việt Nam đi chợ, mua vật dụng nấu nướng mấy món bà ngoại cô thường nhắc.
*
Mới đây, trong giờ làm việc tại sở, có điện thoại reng. Nhấc lên không nghe tiếng nói, chỉ có tiếng thở nặng. Tưởng ai đó phá rối, tôi cúp máy. Nhìn lại, thấy số vùng là nơi cụ bà Quế cư ngụ. Tôi vội gọi lại nhưng đường dây bị bận. Khi thông qua lại không ai trả lời. Linh tính có chuyện bất an, tôi gọi cho Mary Ann và bảo cô gọi cho bà sau khi tỏ bày sự lo âu. Cô làm ngay nhưng sau vài lần không ai bắt lên, cô cho tôi hay và quyết định lái xe tới nơi cư ngụ của bà cụ. Cô vui mừng khi tôi hỏi có muốn tôi đi cùng"
Hai chúng tôi vội vã thu xếp gặp nhau ở bãi đậu xe.
Suốt đoạn đường lái xe cả giờ đồng hồ, Mary Ann sốt ruột, phóng xe quá tốc độ giới hạn. Tôi thầm van vái ơn trên che giùm mắt cảnh sát công lộ chớ lái kiểu này họ chẳng những cho giấy phạt mà còn giam luôn xe thì khổ cả hai.
Tới nơi, không ai trả lời khi cô lên tiếng kêu, Mary Ann dùng chìa khóa riêng của cô mở tung cửa sau.
Vào nhà, thấy bà cụ nằm sóng soài trên sàn nhà, chúng tôi hoảng hồn. Tôi hối cô gọi 911. Sau đó, chúng tôi lái theo xe cứu thương tới bệnh viện.
May quá, sau hai tiếng đồng hồ cứu cấp, bà cụ hơi tỉnh lại, rên nhỏ:
- Ngọc Lan con, bà đau quá. Lưng đau quá...
Bác sĩ cho biết bà cụ bị rạn xương lưng, tôi thông dịch theo lời bà kể rằng khí hậu nóng quá, bà leo lên mặt bàn tính vặn cái máy quạt để trên cao. Cái bàn tròng trành sao đó khiến bà té. Bất tỉnh giây lát, bà cố với điện thoại, bấm số 2 của tôi, gượng bấm nhưng bà nói không ra hơi vì đau quá. Bà đành nằm chịu và mơ màng cho tới khi chúng tôi tung cửa vào. Nước mắt chảy dài, bà trách ông trời sao không để bà chết đi cho rồi, kéo dài cảnh sống này có ích gì" Tôi xót xa không biết nói sao.
Bác sĩ cho bà nhập viện để tiện quan sát. Việc tạm yên, chúng tôi xin phép về sở làm sau khi hứa sẽ trở lại thăm bà. Khi lái xe theo sau xe cứu thương, Ngọc Lan thường mím môi, lặng thinh. Trên đường lái xe về, biết tình trạng bà ngoại không có gì nguy hiểm, cô đỡ căng thẳng hơn, chúng tôi đã có thể trò truyện. Có lúc, sau khi kể chuyện thời thơ ấu đầy cay đắng với bà mẹ và “thằng Mỹ” cha dượng, có lúc Ngọc Lan bảo tôi là chị biết không, ngay từ hồi mới lớn, nhiều lúc em đã muốn buông thả cuộc đời, sống thác loạn, chơi cho “chết mẹ luôn”, theo lời cô. Nhưng khi nghĩ tới bà Ngoại, cô nói “Em thương Ngoại quá, vì bon em mà bà Ngoại sang đây. Nếu em “chết mẹ luôn”, ai trông nom bà ngoại"
Nghe Ngọc Lan nói, tôi nhớ chính bà cụ Quế cũng đã có lần kể với chúng tôi là bà đã từng muốn chết cho yên, nhưng khi nghĩ tới hai đứa cháu, lại phải cố mà sống. Vậy là hai bà cháu, dù bao năm bất đồng ngôn ngữ, nhưng nhờ lòng thương yêu, vẫn ảnh hưởng tới nhau, nhờ nghĩ đến nhau mà có được đời sống tử tế. Khi Ngọc Lan nói, trên mặt cô dàn dụa nước mắt. Chưa bao giờ tôi thấy khuôn mặt đẫm lệ mà đẹp vậy. Và rồi, nhoà nhạt qua màn lệ, tôi thấy thêm hình ảnh cụ bà Quế, hình ảnh bà Chín, hình ảnh cô giáo Ánh của tôi.
Chiếu tối hôm ấy, về nhà, tôi lặng lẽ lục tìm lại quyển sách bao năm bỏ quên trong góc tủ. Quyển sách vẫn nằm yên chổ cũ. Lau nhẹ lớp bụi mỏng trên bìa, tôi dở từng trang giấy, nhìn lại từng dòng chữ nắn nót thời thơ dại, và tìm thấy đoạn thơ của nhà thơ Hồ Dzếnh ngày xưa:
Cô gái Việt Nam ơi!
Nếu chữ hy sinh có ở đời,
Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt Nam tươi.
Lê Tường-Vi