“Viết về chị tôi, Đinh thị Hoa., người vợ của một sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà.” Đó là lời ghi của tác giả ĐT Đào. Bà là thứ nữ trong một gia đình cựu sĩ quan VNCH, sinh tại miền Bắc, năm 1954, di cư vào Nam, năm 1975 dắt díu ba đưa em di tản từ Nha Trang vào Saigon, rồi một mình sang Mỹ khi mới 24 tuổi. Sau đây là bài viết thứ hai của bà.
*
Sao mấy bữa nay trong lòng tôi cứ áy náy không yên.
Không hiểu sao tôi cảm thấy dường như có một chuyện gì sắp xảy ra.
Không phải là tại tôi đang bưởc vào thời kỳ cuả một ngườI đàn bà gần năm mươi mà có những cảm giác khó tả ấy.
Một buổi trưa thứ bảy cũng như những buổi trưa khác, tôi đang ở sở làm và sửa soạn về nhà thì nhận được điện thoại của đứa em gái.
Nghe tiếng khóc nghẹn ngào của nó là tôi đã biết sẽ có tin không lành.
Nuốt nước mắt, nó nói trong tiếng nấc:
“Chị ơi! Chị Phòng mất rối! Chị ấy mới đi lúc mười một giờ trưa ở đây là khoảng nửa đêm bên ấy. Em mới nhận dược diện thoại của cháu Ti…”..
Rồi nó òa lên:
“Chị ơi! Chị ấy mới có năm mươi bẩy tuổi thôi mà……”.
Tôi như hụt hẫng trong không gian, một cảm giác đau nhói trong tim, nước mắt tuôn ra không kềm được, tôi bặm môi ngăn tiếng khóc:
“Thôi được rồi, để tao về rồi nói chuyện, đừng khóc nữa”
Trên đường về nhà, tôi lái xe mà không ngớt nghĩ đến cuộc đời của chị, cuộc đời vợ người lính Việt Nam Cộng Hòa.
*
Chị tôi là chị cả của năm chị em tôi, người chị cà hiền lành của những đứa em sớm mồ côi mẹ.
Trong tuổi mới lớn của tôi, chị là người đẹp nhất, sang nhất và oai nhất trường. Tôi thường lén vân vê những cái áo dài lụa của chị treo trong tủ hay chui xuống nằm dài dưới gầm giường chị để sờ những đôi giày “ét ca panh” cao gót, thầm phục lăn vì chị mang giày như thế mà vẫn đứng trên bục giảng bài với một dáng điệu quý phaí.
Chị làm cô giáo ở trường quận lúc năm mười tám tuổi. Hình ảnh một cô giáo tóc dài, mặc áo dài, đội nón lá đi trước có lũ học trò lẽo đẽo theo sau không dám đi qua mặt cô vẫn còn như in trong lòng tôi. Trong đám trẻ đó có tôi, vênh váo với các bạn vì có chị là cô giáo, oai lắm chứ. Có lúc tôi còn bắt nạt được vài đứa phải ôm cặp cho tôi nữa.
Hình ảnh ấy cũng lọt vào con mắt của một người trong cư xá sĩ quan.
Trong đoạn đường chông gai theo đuổi chị tôi, anh đã bao phen phải vượt qua chướng ngại vật là tôi. Anh được đặt nhiều tên lắm, như Đạo Sĩ Dừa vì là dân Kiến Hòa, Thầy Chuà vì anh ăn chay trường, Sếu Vườn vì anh cao lêu nghêu, Trung Uý muôn năm vì anh vừa lên chức, lại tụt xuống một bậc với cái đầu cạo láng bóng vì bất tuân thượng lệnh, khi bò lên chức cũ chưa được bao lâu thì lại lãnh củ, lột chức, chứng nào tật ấy.
Có lần anh lãnh năm củ vì không muốn lỗi hẹn với chị tôi.
Sau một tuần vắng bóng, gặp anh lại với cái đầu thầy chùa, anh xoa xoa cái đầu trọc lóc vì phạm luật cấm xuất trại không giấy phép. Sau đó, anh không đeo lon nữa vì bị lột hoài và cũng vì thế mà bị Quân Cảnh phạt đến chán nên chỉ bị hít đất tại chỗ. Anh bị tôi bắt “địa” nhiều lần vì tôi luôn luôn phải tháp tùng theo chị mỗi lần hai người hẹn hò với nhau.
Mỗi lần có hẹn, chị thì thầm bảo tôi xin bố mẹ đi mua sách vở với chị. Trong năm chị em, chị chọn tôi vì tôi hay nói chuyện huyên thuyên, hỏi chuyện vớ vẩn với anh mỗi khi chị lúng túng chưa tìm dược câu trả lời cho những câu hỏi khi gặp anh. “Con lắm mồm” cũng được việc đấy chứ… Còn nữa, anh hay mua quà vặt cho tôi ăn để anh có thời giờ tâm tình cùng chị. Có lần anh đưa cả hai chị em đi xem xi-nê, chị bảo tôi ngồi giữa hai người vì chị ngại gặp người quen, nhưng anh chị cứ nói chuyện với nhau qua đầu tôi làm tôi chẳng nghe được chuyện phim nên tôi nhảy phóc lên hàng ghế trên ngồi. Anh khoái tỉ đổi ngay chỗ ngồi bên cạnh chị, thì thầm thoải mái.
Năm hai mươi mốt tuổi chị lấy chồng đi theo anh khắp nơi trên bốn vùng chiến thuật. Lá thư cuối chị kể chuyện anh bị đi “đày” mãi tận Cà Mau vì tính ương nghạnh cuả anh. Nơi đóng quân cuối cùng cuả anh trước ngày rã đám là một nơi khỉ ho cò gáy ở miền Cà Mau mà tôi đã quên tên.
Tôi không gặp lại chị từ sau ngày cưới của chị và kể cả ngày bỏ nước ra đi, chị em cũng không gặp được nhau.
Trong mười một năm đầu lưu lạc, tôi thường xuyên nhận thư chị. Chị không bao giờ tả cảnh thiếu thốn hoặc những khó khăn cuả gia đình. Chị cũng cho biết là đã về ở với bố và các em vì anh đang ở trại cải tạo sau ngày đổi đời ấy. Trong lá thư nào cuả chị cũng có những lời khuyên nhủ tôi cố gắng học cho ra trường, cố gắng nuôi con và kể những kỷ niệm cũ, những chuỗi ngày hai chị em đi chơi ở công viên, đi xem xi-nê với anh v.v… Chị luôn viết “ở nhà vẫn thường, chỉ lo cho em một mình ở nơi xứ lạ quê người thôi em ơi..”.
*
Tự dưng cảnh vật trước mắt tôi nhạt nhòa, tôi vội laí xe vào lề đường để lau nước mắt chẳng biết đã tuôn lúc nào. Định thần một lúc, tôi mới tiếp tục lái xe về nhà.
Năm 1991, khi bố và các em tôi sang đoàn tụ, tôi mới được biết nhiều về chị. Tôi có đề nghị chị làm giấy tờ xuất cảnh nhưng chị từ chối vì phải lo hương khói mộ chồng.
Trong ngày nắng cháy
Muà hạ năm nay
Tháng sáu hăm bảy
Trới đất cuồng quay
Nhận được tin nhà
Lòng thật xót xa
Chị tôi đã mất
Trong đêm hôm qua
Giọt lệ nào tuôn
Giọt nào nuốt xuống
Chi ơi ! Chị ơi!!
Đáng lẽ…đã muộn.
Đáng lẽ hồi đó
Hai chị em mình
Thường luôn thăm hỏi
Sức khoẻ thường tình
Đáng lẽ chị nên
Cho em biết trứợc
Thì ngày hôm nay
Em không vô phước
Đời chị bôn ba
Kiếp gái thời loạn
Sau cuộc đổi đời
Đắng cay hoạn nạn
Xuôi ngược Bắc Nam
Mong ngóng tin chồng
Vượt bao khổ ải
Thăm nuôi hết lòng
Ngày anh trở về
Kỷ vật cho chị
Đứa con đầu lòng
Bao niềm hoan hỷ
Niềm vui chưa vẹn
Anh đã ra đi
Con chưa ra đời
Khóc sầu sinh ly
Một mình tần tảo
Nuôi con mồ côi
Nước mắt rơi xuống
Cho đời con tươi
Con chưa nên người
Sao chị vội đi
Bỏ con bỏ hết
Đoạn trường biệt ly
Xa nhau muôn dặm
Không nhìn thấy nhau
Bây giờ chị mất
Tưởng như chiêm bao
Từ nay trở đi
Không gặp nhau nữa
Mỗi năm em về
Thay là đám giỗ…
Chị ơi! Chị ơi!
ĐT ĐÀO