Tác giả là một vị cao niên, cư dân Fountain Valley, Orange County; Tại Việt Nam trước 1975: Cựu giáo sư, Vietnam; Cựu VGS.12.4, D.A.O. Saigon. Thuyền nhân đến Mỹ 10/1976. Cựu EW2. DPSS Los Angeles County; Ông đã góp cho Viết Về Nước Mỹ nhiều bài viết cẩn trọng, sâu sắc, hữu ích, và đã được trao tặng giải thưởng đặc biệt. Sau đây là bài viết mới của ông.
*
Trên thế gian nầy, bất cứ cái gì tốt, cũng có kẻ không tốt làm giả, như thuốc giả, bạc giả, bằng cấp giả, quân sát nhân giết bao triệu người còn mưu giả thánh nhân để bịp luôn cả muôn đời, huống chi có người giả tu sĩ chắc là chuyện không lạ. Charlie Chaplin đã làm phim hài hước, về một tù vượt ngục rồi giả làm linh mục đứng giảng ở nhà thờ. Phim làm vui cả thế giới, mà không ai than phiền rằng Charlot đã bôi bác đạo Chúa. Nghĩ thế, nên tôi liều kể một chuyện xảy ra khoảng hơn 15 năm trước, trên đất Mỹ nầy. Chuyện một vài "ông đạo" đã dùng đức Phật để nghi trang cho việc làm phàm tục của mình. "Chiếc áo không làm nên thầy tu"giúp cho người ta sáng suốt phân biệt chơn giả trong cõi thế gian đa trá. Người viết bài nầy vẫn một niềm quí kính các vị chân tu tôn giáo.
*
Bà Jenna Ba, gốc con nhà khá giả ở Saigon, trước học Marie Curie, lịch thiệp, vui bạn bè, tiệc tùng, khiêu vũ, bơi lội, ca nhạc, giỏi Việt và ngoại ngữ. Thật là một nữ lưu thanh lịch. Vậy mà số phận lại muộn màng, có lẽ vì "Lứa trang mòn ngả chiến chinh, để cô hiu quạnh gởi tình trăng sao.", nên đã quá buổi xuân thì mà vẫn phòng không chiếc bóng.
Đến khoảng giữa thập niên 1960, Mỹ tăng cường chiến tranh Việt Nam, cần xây cất nhiều căn cứ. Các hãng thầu Mỹ đem đông thầy thợ Mỹ qua để thực hiện những công tác đấu được. Nhiều cô Vietnam được tuyển vào làm việc cho họ, Jenna trở thành một trong số nầy. Cô làm thư ký cho phòng họa đồ của kỹ sư George. Gần gũi nhau lâu ngày và nhờ vả lẫn nhau, George giúp cô lai rai mua hàng miễn thuế ở Quân Tiếp Vụ Mỹ về xài và bán lại kiếm lời. Hai người càng thêm thân thiết, thương yêu, và kết hôn, vì tình vì tiền. Đầu thập niên 70, quân Mỹ bắt đầu rút, hãng thầu cũng cuốn gói về Mỹ. Jenna theo kỹ sư George dọn về Riverside, California, ba năm trước khi Saigon rơi vào tay CS.
Trước 1975, số phụ nữ VN, theo chồng sang Mỹ không nhiều, lại ở rải rác, cô lập khắp 50 tiểu bang. Họ cảm thấy cô đơn giữa một nền văn hóa xa lạ. Phụ nữ Hoa Kỳ lại nhìn họ với ánh mắt bất thân thiện. Họ chẳng biết làm bạn với ai ngoài ông chồng. Cứ mỗi lần những cô Việt Nam nầy tình cờ gặp một cô khác trong siêu thị, hoặc đâu đó, thì họ mừng rỡ như bắt được vàng "tha phương gặp đồng cảnh, đồng hương, cũng không khác gì như ngộ cố tri", mà người Tàu thuở xưa cũng cho là một trong bốn dịp vui lớn trong đời người. Họ làm quen nhau ngay, hỏi số phone, địa chỉ, để cuối tuần thường mời nhau đến thăm, dù xa xôi có khi cả trăm dặm. Họ nướng barbecue hay nấu phở đãi nhau ăn, coi nhau như chị em thân tình từ thuở nào xưa.
Những anh chồng Mỹ lại có dịp đi theo, nhìn ngắm thêm và vui cười với những bông hoa đông phương nhí nháy. Họ đến để nhớ lại những kỷ niệm xưa, lúc làm việc ở Việtnam, một thiên đường tình ái, tiền bạc, và sang trọng cho những nhân viên Mỹ phục vụ ở Saigon, và các thành phố lớn. øMặc dầu Việtnam lúc bấy giờ là chốn nhiều thương vong, hiểm nguy, và gian khổ nhất. Những buổi họp mặt, các cô tha hồ đủ thứ chuyện vì đám chồng Mỹ chung quanh không thể hiểu tiếng Việt.
Những ông chồng Mỹ nầy thường rất dễ thương, mấy bà nói gì cũng nghe. Họ không biết phong tục Á đông nhiều, nhưng họ tôn trọng tự do tín ngưỡng, nhất là của mấy bà. Có ông còn lập am, lập miếu sau nhà cho mấy bà lên đồng cô, bóng cậu, cúng tế, nhang đèn hương khói nghi ngút. Đàn bà Vietnam thường kín đáo, ít khi nói chuyện thầm kín với bạn bè, nhưng mấy cô này hay nói tục, chuyện hai ba chữ X bằng tiếng Việt cho nhau nghe, rồi cười đùa tưng bừng. Cho nên tuy xa xứ, thiếu bà con bạn bè, nhưng họ vẫn có niềm an ủi và giải tỏa tâm tư thương quê, nhớ nước với người đồng cảnh.
Tiếp sau ngày 30/4/75, người Việt sang định cư, rải khắp nước Mỹ. Một số lớn lại tự di chuyển, tái định cư về California. Rồi những đợt thuyền nhân đến ngày càng đông về vùng nầy. Những cô nầy lại gặp thêm bà con, bạn cũ đông vui thêm.
Phần lớn những cô sang đây trước, nếu không ghiền rượu chè, ma túy, hay cờ bạc Las Vegas thì đều khá giả về tài chánh và có lợi tức vững chãi. Ngay cả có bà, gốc nhà quê nghèo khó, từ Bắc di cư vào Nam, thất học, một chữ A cũng không biết. Bà chỉ học miệng, ban đầu chỉ nói đôi câu "Ok, Salem", "Ok B. B." đi làm bồi dọn dẹp, may gặp chồng lính Mỹ đem sang đây, siêng làm bus boy, rồi lên waitress, lại giúp chồng học ra đại học, và sau chính môt mình bà đã tự làm chủ một restaurant sang trọng, điều khiển cả hơn vài ba chục bồi bếp Mỹ ở một thành phố Beach. Bà bắt họ một điều, hai điều phải thưa: Yes mame, no mame, lễ phép tối đa với bà ta, và bà điều động nhân viên rất hữu hiệu.
Chuyện đời không có gì hoàn toàn như ý, vợ chồng George và Jenna đang làm ăn ngon lành, có nhà cửa, nông trại, stock, lợi tức đều đều, hương lửa đang nồng, bỗng George bị ung thư nhiếp hộ tuyến. Được giải phẫu tạm lành, nhưng George đã trở thành một phế phu.
Một hôm có người bạn cũ, thuyền nhân mới qua sau, từ San Jose xuống Orange thăm chơi và nhờ lão Thanh chở đến thăm nhà Bà Bảy ở Costa Mesa, và từ đó liên lạc thăm gặp đám bạn cũ dưới nầy. Họ trực nhớ đến bà Jenna Ba, mới phone mời bà từ Riverside lên chơi. Bạn cũ lâu ngày gặp nhau, rất tương đắc, kể lại những kỷ niệm thời trẻ: nhảy nhót ở Văn Cảnh, Cercle Trắng, Arc-en-Ciel. . , Saigon xưa. Chuyện vui với bao kỷ niệm, tha phương ngộ cố tri. Xong cả đám rủ nhau đi ăn quán Kim Sư. Jenna bao trả tất cả, rồi mời cả đám bạn nam nữ, ba bốn xe, lái theo lên Riverside County thăm vườn hồng ở bên trái freeway 15 South, một khoảng trước khi đến Lake Elsinore chừng vài miles.
Lão Thanh chở khách và đám bạn đến nơi, thấy một mảnh vườn khá rộng, có thể chia lô cất vài ba căn nhà riêng rẽ, trồng nhiều cây hồng giòn và bí, mướp xanh um, tràn lan đến tận bờ rào lưới kẽm. Thấy đám khách đến, một người đàn ông, dáng vóc khỏe mạnh, nước da ngăm nâu, trạc gần năm mươi, được bà Jenna gọi là thầy Sáu, chạy ra mở cổng. Trông thầy mặt mũi rắn rỏi, tóc râu nhẵn nhụi, có vẻ thật thà, có nét dễ mến của môt hiền nhân, lỡ già lỡ trẻ. Lúc đó thầy đang bận thường phục, cắt dọn trong vườn, trông như một phu vườn đang làm việc. Nghĩ tụi nhóc Mỹ, Mễ trong vùng dù muốn cắp, xâm phạm cơ sở nầy chắc sẽ không dám, vì thấy thầy có vẻ như một võ sư Takundo, chúng có thể nghĩ nếu láng cháng bị thầy quật cho một cái là rối xương.
Mở cổng xong, thầy vội chạy vào trailer thay đồ. Khách đứng nói chuyện thăm hỏi ngoài vườn một lát, rồi được thầy Sáu ra mời tất cả vào trong cái trailer khá rộng, đặt ngang ở chính giữa vườn.
Bên trong trailer, vào khoảng 2/3 có đặt một bàn thờ, có tượng Phật Thích Ca tịnh tọa, cỡ bằng người thật, trên bàn có chuông mõ, nhang đèn, hoa quả, và mấy tạng kinh bằng tiếng Việt do vị cao tăng ở LongBeach soạn dịch từ tiếng Phạn phổ biến. Sau lưng Phật Tổ là vách ngăn, che khuất cái phòng nhỏ đặt giường nằm của thầy Sáu. Còn phần trước mặt Phât là chỗ tiếp khách và lễ Phật.
Không ai biết trình độ hay kiến thức Phật học của thầy Sáu có đủ để làm thầy và thực sự có duyên nghiệp tu hành hay không, nhưng đã được mấy bà tôn kính gọi là Thầy Sáu thì cũng phải thôi, vì ở đời ai cũng có tài nghề, chuyên môn, hoặc hiểu biết riêng về một điều gì đó, mà người khác không biết, thì đã kể như bậc thầy về môn đó rồi. Thầy Sáu gác gian và làm vườn tại cơ sở nầy. Hằng ngày thầy trồng xới, tưới nước, bón phân, và thâu hoạch những cỏ rau trong vườn. Thầy cũng là người đốt nhang đèn, gõ mõ, tụng kinh, lần tràng hạt khi thầy đeo vào cổ, khi thầy để trên bàn.
Bên hông trailer, thầy có ủ mấy lu đậu nành nhỏ để làm tương, dăm hột nở tràn rơi rớt ra bên ngoài. Nhìn cảnh vắng vẻ nầy, khách không khỏi liên tưởng đến cảnh Thuý Kiều khi ở Quan Âm Các. Nhưng khác phái với Kiều, thầy Sáu được coi như quản gia kiêm ông đạo hoặc ông sư đang trụ trì ở "Thích Ca Hồng Viên".
Khách được mời trà nước một lát, thì cũng đến thời kinh chiều, thầy mời đám khách ngồi xấp bằng trên chiếu nylon, để sửa soạn lạy Phật. Thầy vào liêu phía sau lưng Phật, lau mồ hôi, mở quạt máy cho khô vài phút, rồi mặc áo cà sa nâu, ngoài choàng xéo lên một vuông vải cà sa vàng viền đỏ, che không hết toàn người, mang hài bố, và đội mũ vàng, viền đỏ cao nghệu. Thầy bước ra trước bàn thờ Phật, đốt thêm nhang đèn và lai rai khấn vái. Bà Jenna ngồi trước, lần lượt quí ông bà khách thứ tự ngồi sau lưng, mặt nhìn lên đấng chí tôn, lâm râm cầu nguyện, xin chư Phật độ trì tai qua nạn khỏi, phước lộc song toàn, sinh nhai tấn phát, tử tôn hiếu thuận.
Xong thầy gõ ba hồi chuông mõ, khấn vái lên một tràng dài, như là bài thuộc lòng, đọc lên xuống giọng, nghe rất êm ái, rồi thầy lật kinh ra tụng. Khách chỉ có vài người mới đến lần đầu tiên có hơi bỡ ngỡ, còn những người khác như đã thành thuộc với lối sinh hoạt ở đây, cũng đều lật kinh ra đọc theo thầy.
Tiếng mõ, thầy gõ đều đều thỉnh thoảng ngắt khoảng bằng tiếng chuông ngân dài. Có những đoạn kinh tiếng Phạn được phiên âm, mà không phiên nghĩa, nên nghe hay mà không hiểu ý gì, nhưng có âm thanh và nhịp điệu dường lặp đi lặp lại nhiều lần. Tụng một hồi lâu, hết cuốn kinh chữ Việt lớn, rồi thầy lại khấn vái như bài hát thuộc lòng, âm thanh trầm bổng. Xong m ọi người đứng dậy đảnh lễ, lạy Phật, rồi lễ tất. Trước bàn Phật có một thùng phước sương nhỏ, ai cúng, ai không, thầy Sáu hay bà Jenna không hề lưu ý.
Sau lễ, mọi người uống nước, ăn trái cây, rồi ra ngoài ngắm cảnh và trằm trồ những hoa màu do thầy Sáu trồng được. Thầy Sáu thay áo rồi ra vườn hái một mớ bí, mướp, khổ qua và rau cỏ non tươi chia cho mỗi khách một mớ, bỏ lên xe mang về ăn lấy lộc chùa. Rồi cả đám, phần ai xe nấy, chia tay ra về vui vẻ, cũng vừa lúc đường phố đã lên đèn. Riêng bà Jenna ở lại bàn việc với thầy Sáu và ra về sau cùng.
Thanh về, đem rau quả ra nấu canh ăn mấy hôm, nhớ ơn Trời, Phật. Rồi vì những thúc bách của cuộc sống hằng ngày, Thanh cũng quên hẳn bữa gặp mặt thân hữu hôm đó. Gần hai năm sau, Thanh một mình có dịp chạy xe ngang qua vùng nầy, tiện ghé vào thăm lại vườn hồng, nơi thầy Sáu công quả tu hành, xem hoa màu cây trái, tính kiếm một ít hoa quả về nấu ăn, và sẵn hỏi thăm tin tức bà Jenna sinh hoạt thế nào.
Xe đến trước cổng, thấy cửa vườn khóa kỹ, cây lá xác xơ, bí bầu trên dàn khô đen như gần mục nát, lối vào cỏ mọc cao khô, hình như đã lâu không còn ai ở đó nữa. Phía trước bờ rào, sát cổng có tấm bảng bằng tôn ghi là "No trespassing", với hình đầu con chó răng tỏa nhọn hoắt. Vật đổi sao dời, nơi đây hoang vắng, không còn bóng dáng thầy Sáu.
Lòng khách lâng lâng buồn, chắc là bà Jenna có chuyện rắc rối gì đây, nên vườn hồng đã đổi chủ. Tâm tư Thanh bấy giờ, ít nhiều có cảm giác không khác Kim Trọng khi từ Liêu Dương trở lại vườn Thúy. "Nhìn xem cảnh cũ nay đà khác xưa, Đầy vườn cỏ mọc lau thưa, Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời". Khách bấm chuông, chuông không kêu, vì điện đã cúp. Gọi lớn thầy Sáu, thầy đã vân du biệt tích. Bà Jenna thì nhà ở cách xa. Khách buồn bã ra về, nhớ ngày nào ở đây bạn cũ họp nhau đông vui, kinh kệ mà bây giờ bốn bề vắng vẻ, sư ông, tín chủ đều biệt tăm chim cá.
Rồi một đêm kia, Thanh vào vũ trường Ritz ở Anaheim tiêu khiển, trong lúc ngồi chờ giờ nhạc trổi, khách tình cờ gặp địa ốc gia Minh Thông bước vào, được sắp ngồi bàn bên cạnh. Trước kia ở Saigon, Minh Thông chuyên mở lớp Anh Văn ở đường Lê Văn Duyệt, dạy đàm thoại cấp tốc cho mấy cô, mấy bà định lấy chồng hoặc giao thiệp với Mỹ. Sau 1981, ông vượt biển sang đây, làm địa ốc, móc nối lại với mấy cựu học viên sang đây từ trước. Và ông đã được họ giới thiệu rộng rãi đến các bà bạn có chồng Mỹ khác. Ông chuyên mua bán nhà đất, mối lái, hùn hạp và hướng dẫn cho mấy bà này đầy đủ, từ xuất vồn đầu tư, đến khi vỡ nợ, mất của, chạy làng. Cũng là chỗ quen, Thanh hỏi thăm về bà Jenna và bất động sản nọ. Minh Thông cho biết năm vừa qua, bà Jenna đến yêu cầu ông bán khu vườn đó và đuổi lão thầy Sáu đi với bất cứ giá nào, miễn sao cho thật gấp. Minh Thông hãnh diện khoe rằng mình đã làm xong yêu cầu của bà Jenna với thời gian nhanh kỷ lục. Nay vợ chồng George, Jenna cũng đã đổi số điện thoại, không còn liên lạc giao thiệp với mấy bà bạn kia nữa.
GIẢ TU
Ngày thời công quả, tối công phu,
Ủ đậu làm tương, đậu quá lu.
Tràng hạt đếm đeo đà mỏi gối,
Cà sa đắp xéo ẩm mình khu.
Phu nhân địa chủ cùng tu đạo,
Mỹ nữ môn đồ thích đạo tu.
Mượn cảnh vườn hồng thường đại mũ,
Nương nhờ quán nọ vẫn cương du.
Nghe Thanh ngâm thơ, các bạn ngồi chung xe cười ngất, và bảo Thanh đọc lại mấy lần để ghi nhớ, thì xe đã băng băng qua khỏi địa giới Origon.
Chuyện Thầy Sáu dối thế, gây nên gió loạn vườn hồng, sống hai mặt, được mô tả đầy đủ bằng bài thơ nầy. Người viết thấy bài thơ độc đáo, nên chép thêm vào đây để kết thúc bài viết. Xin chư tôn hỉ xả.
HOPHI