Hôm nay,  

Tình Muộn

25/08/201800:00:00(Xem: 13727)
Tác giả: Trần Ngọc Ánh

Bài số 5476-20-31283-vb7082518

 
Viết Về Nước Mỹ năm thứ 20 trân trọng chào mừng thêm một người viết mới. Theo bài viết, từ 1978, Ngọc Ánh đã là tác giả những trang nhật ký của một nữ sinh viên viết từ Sài Gòn,  được đăng trên bán nguyệt san Việt Nam Hải Ngoại tại San Diego. Và từ 1979 thì cả nhà người viết  đi tù. Người chồng bị kết án tử hình. Cháu bé mới sinh một tuổi theo mẹ vô nhà tù. Nhưng hơn 10 năm tù đày cộng sản không làm bà gục ngã. Và rồi, tình yêu đến... Thư kèm bài, bà viết “Tôi tên thật là Trần Ngọc Ánh, hiện đang sống tại thành phố Victorville, CA. Lần đầu tiên tôi viết bài tham dự "Viết về nước Mỹ" và hy vọng sẽ có nhiều bài viết về chủ đề này gởi đến Việt Báo trong năm nay...” Khi thêm bài mới, mong tác giả bổ túc ít dòng tiểu sử và địa chỉ liên lạc.

 
***
 

Tôi biết anh sau ngày Sài Gòn sụp đổ chừng vài tháng, khi mà mấy ông thầy bị sàng lọc và đuổi ra khỏi trường mà không cần biết lý do, để đưa những tên cán bộ chính trị của “Đại học Pắc Pó” từ miền Bắc vào giảng dạy.

Cộng Sản là thảm họa của cả miền Nam kể từ dạo ấy và đối với riêng anh việc bị đuổi ra khỏi trường Văn Khoa là một biến cố đau buồn nhất trong đời, nó thường xuyên ám ảnh đến cả giấc ngủ đầy ác mộng của anh sau này.

Anh là bạn thân của ông Thầy dạy tôi thời Trung học, hai người bạn thất nghiệp đi lang thang và ghé vào căn phòng trọ của cô học trò nhỏ. Cả thầy lẫn trò đều xác xơ đến tội nghiệp. Tôi loay hoay nấu cơm bằng cái nồi nhỏ xíu với chút rau luộc và cái trứng vịt dầm nước mắm. Buổi cơm đạm bạc nhưng chân tình. Tôi ấm ức kể cho Thầy nghe những bực bội trong cuộc sống mới mà tôi phải chịu đựng, những bất mãn hậm hực trong chế độ XHCN nói một đàng làm một nẻo.

Tức mà không biết nói với ai, tôi viết nhật ký và in roneo cả xấp, không biết để làm gì nữa nhưng chắc cũng đỡ buồn đôi chút. Thời buổi này biết tin ai bây giờ ngoài Thầy, tôi không có dịp học với anh dù nửa chữ, nhưng tôi kính anh như thầy mình. Tôi đưa bản nháp cuốn nhật ký cho hai ông, coi như có người để chia sẻ tâm sự.

Năm 1978, cuốn nhật ký được một người thân lén chuyển qua Mỹ, và được in làm nhiều kỳ trong bán nguyệt san Việt Nam Hải Ngoại tại San Diego. Và đầu năm 1979 tôi vào tù, tôi từng nghĩ chuyện tới đó chấm hết.

 Thời gian như cuồng phong phẩn nộ cuốn phăng mọi thứ. Mất hút trong mưa giông là những dề lục bình tuổi thơ mơ mộng của bạn bè tôi, dật dờ rác rưởi trong chế độ mà “đôi dép râu làm sầu tuổi trẻ, nón tai bèo dẫm nát mộng đời trai”, gió đưa gió đẩy không về rẫy Kinh Tế Mới thì cũng ra khơi vượt biển tìm Tự Do. Thời điểm sôi bỏng lúc đó ai cũng muốn đi, dù biết chắc rủi ro phía trước.

Cuộc sống bức bách trong thời gian đầu khiến anh không thể chịu đựng nổi, anh dẫn vợ con ra khơi trên chiếc ghe chông chênh túm húm phó thác tánh mạng cho Trời. Tôi chọn sự ở lại để cùng chồng mưu toan “bẻ gậy chống trời”. Mọi việc không thành, cả nhà bị bắt, chồng tôi bị tuyên án Tử Hình, tôi chôn tuổi trẻ của mình hơn 10 năm trong lao tù Cộng Sản. Thằng con trai mới hơn một tuổi cũng bị vạ lây vướng vòng lao lý đến độ tật nguyền. Câu chuyện đau thương và trải dài biết bao khốn khổ bất hạnh trong suốt những năm tháng buồn hiu đó.

Cuối cùng thì tôi cũng ra tù, con trai tôi được một tổ chức nhân đạo bên Thụy Sĩ mang ra khỏi trại giam trước đó vài năm. Sự giải thoát chậm trễ đã khiến nó tàn tật suốt đời, chính điều này đã làm tôi đau đớn ân hận mãi không nguôi.

Phần anh, sau chuyến vượt biển thành công, chiếc ghe mong manh tấp vô một đảo nào đó bên Indo chờ ngày qua Mỹ định cư. Giống như định mệnh được báo trước, những ngày trong trại tỵ nạn, tạp chí Việt Nam Hải Ngoại tình cờ lọt vào tay anh và những đoạn nhật ký rời rạc trong đó khiến anh thảng thốt vì anh đã biết tác giả là ai, anh đã từng đọc nó bằng bản roneo nhòe mực, và anh đã đốt nó trước khi xuống tàu ra đi. Anh chọn sự bỏ cuộc và cô học trò chọn sự ở lại để đối đầu với cả một chế độ. Sau này, anh thường nói với các bạn là tuổi trẻ của cô ta thật dũng cảm, anh đã không làm được điều đó. Có cái gì như ân hận ray rứt khiến anh bồn chồn trong bụng.

Vài năm sau, khi cuộc sống tạm ổn định anh gọi về Sài gòn gặp người bạn cũ để hỏi thăm tin tức về "con nhỏ năm xưa". Thầy tôi cũng chỉ có thể nói lại với anh điều ông đã  nghe loáng thoáng trong đám học trò “...hình như nó bị bắt và chết trong tù.”

Nhưng bầm dập tù đày  không làm tôi gục ngã. Tôi sống sót để trở về với bao tang thương mất mát không cách gì bù đắp. Ra trại, trở lại cuộc sống bình thường nhưng không yên ổn, cơm áo mưu sinh vất vả, thường xuyên đối mặt với những kỳ thị hoạnh họe của chính quyền địa phương, với cái lý lịch tăm tối tù tội trong quá khứ khiến tôi thật sự mệt mỏi.


Trong một lần đi họp trường xưa bạn cũ, tôi đến chào Thầy. Ông ngỡ ngàng nhận ra “con nhỏ học trò” thuở nào và buột miệng,  “Em còn sống hả Ánh?” Và ông hỏi, “Em còn nhớ Thầy S không? Nó cũng hay về thăm tôi. Có lần nó hỏi thăm em, tôi nói em chết rồi, nó buồn xo...”

Mấy chục năm qua rồi, gặp anh một lần như thoáng gió, có gì đâu mà nhớ. Tôi thời đó hừng hực tuổi hai mươi, còn anh có vợ 4 con bộn bề trăm nỗi. Với anh, cái buồn xo nếu có chắc cũng chỉ là tội nghiệp đứa học trò lận đận mà thôi!

Trong mùa hè nào đó, tôi nhận được cú phone lạ. “Thầy S. đây, con có nhớ thầy không?” Phản ứng rất tự nhiên tôi “dạ - không” gọn lỏn. Bên kia đầu dây ngập ngừng một chút, “Ờ hôm nào Thầy trò mình gặp nhau nhé”.

Cũng không có gì bất ngờ luống cuống. Hai ông thầy lại đến thăm cô học trò  đã già hơn xưa sau hai mươi mấy năm không liên lạc. Lại thêm một bữa cơm thân tình nhưng tươm tất hơn trước, lại những  chuyện kể đứt khúc như cuốn phim buồn, thật tình tôi muốn quên đi quá khứ đau thương.

Ra về anh ghi vội cho tôi  địa chỉ eMail để “Thầy trò liên lạc nhau,” và tôi vẫn kính cẩn “Thưa Thầy” mặc dù tới bấy giờ Thầy vẫn chưa dạy tôi cách dùng email để viết... thư tình.

Thời đó, có cái computer trong nhà là một mơ ước của tôi. Anh đâu biết mỗi lần trả lời email của anh, tôi phải chạy hàng mấy cây số mới tới chỗ dịch vụ Internet, loay hoay tự học mổ cò từng chữ.

Rồi thư qua thư lại, lúc đầu chỉ là những chia sẻ trong cuộc sống ở hai bờ đại dương xa lắc. Anh còn đi dạy, lũ học trò tiểu học dễ thương. Các con đã lớn có cuộc sống riêng, vợ anh ly dị đã lâu. Anh ở một mình trong căn nhà rộng vắng vào ra cô đơn lặng lẽ, cơm nước tự nấu bữa sống bữa chín.

Còn tôi làm công nhân trong một xưởng gỗ tư nhân, mỗi ngày đạp xe hì hục trên xa lộ nắng cháy mà không biết tai nạn chết chóc xảy ra lúc nào. Không có bằng Đại Học thì chỉ làm công nhân suốt đời, tôi nghĩ vậy mà cố gắng ghi tên học lại. Rồi mấy năm đèn sách vất vả cũng qua đi. Khi anh gặp tôi thì mọi việc có vẻ như ổn định, tôi đã tự đứng dậy được trên đôi chân của mình.

Email qua lại cả hai năm trời, anh gọi phone cho tôi thường xuyên hơn, thân thiết hơn và không biết từ chữ “Thầy” chuyển qua chữ “Anh” lúc nào mà tự nhiên chúng tôi không còn thấy khoảng cách hàng mươi ngàn cây số giữa Mỹ và Sàigòn xa xôi mút chỉ nữa, những lá thư tình chất đầy ngăn kéo đã kết nối đôi bờ.

Mùa hè 2004, Anh quyết định bay về nói chuyện kết hôn.  Má tôi im lặng một hồi mới nói “Già rồi ở vậy cho rảnh.” Nhưng nói là nói vậy thôi, Má sợ tôi bước thêm bước nữa rồi khổ. Nhưng Má ơi, tử vi nói con hết cơn bĩ cực rồi. Tôi chợt nhìn xuống chân “ông rể” tương lai của Má, ai đời buổi ra mắt nhà vợ đầu tiên mà anh mang vớ chiếc xanh chiếc xám bê bối thấy mà thương, mới biết anh chàng đã làm mềm lòng trái tim tưởng đã hóa thạch của tôi từ những điều nhỏ nhặt.

Vậy đó, tôi làm cô dâu ở tuổi 50, trong chiếc áo dài đơn sơ giản dị, bạn bè hai bên chừng vài bàn, buổi tiệc nhỏ đầy ấm cúng, ai cũng chúc mừng cho hạnh phúc muộn màng nhưng rạng rỡ của tôi, lối xóm bàn tán “cô ta hên ghê có chồng Việt kiều về cưới”. Anh nắm tay tôi ấm áp dỗ dành, tôi nghĩ mình thật hạnh phúc và bình yên khi có anh bên cạnh.

Sau ngày cưới, thấy không thể nấn ná trong cái xã hội đầy rẫy sự bất an ngang ngược từng ngày, anh quyết định mang tôi đi xa hơn về miền đất hứa...

Ngày tôi lên máy bay rời Sàigòn cũng vào mùa hè, tháng 5 và những chùm phượng đỏ rưng rưng ướt đẫm trong cơn mưa đầu mùa. Tôi biết mình đã mất Quê Hương từ cái ngày 30/4/1975 đáng nguyền rủa ấy, nhưng lần ra đi này mới thật sự thấy thấm nỗi chia ly. Biết bao người đã bỏ nước ra đi và chết tức tưởi trên biển cả, còn tôi may mắn hơn triệu triệu người khi vượt biển trên chuyến bay American Airlines, để đến một nơi mà mình biết chắc là có Tự Do Hạnh Phúc thật sự chứ không phải thứ Tự do được rêu rao bịp bợm gian trá trong cái gọi là CNXH.

Qua rồi những bão tố gian nan, những cay nghiệt khốn khổ trong cuộc sống tù đày của ba mươi năm trước. Tôi khép lại quá khứ nhọc nhằn, lau khô những giọt nước mắt bi thảm để nắm tay anh đứng dậy. Cuộc sống vốn ngắn ngủi cho những ai bi quan, tôi nghĩ mình đang hướng về phía mặt trời.

Như cuốn tiểu thuyết có hậu ở trang cuối, tôi cám ơn anh đã viết Tình Yêu bằng chữ hoa trân trọng cho những năm tháng còn lại của chúng tôi. Hạnh Phúc thật sự chỉ có trong trái tim rộng lượng, chân tình.

Cám ơn anh, cám ơn nước Mỹ đã dung chứa thêm một người tị nạn khốn khổ như tôi. Chào một ngày mới bắt đầu trên quê hương mà bao người mơ ước được đặt chân tới. “America Dream.”

Tháng 8/2018.

Trần Ngọc Ánh

Ý kiến bạn đọc
26/08/201804:00:54
Khách
Chúc mừng chị đã qua cơn bỉ cực. Cảm ơn chị đã chia sẻ chuyện đời cay đắng ngọt bùi, thật cảm động. Mong được đọc thêm. Chúc chị sức khỏe và nhiều niềm vui.
26/08/201801:57:32
Khách
Tôi xin mượn bốn câu thơ của Hồ Dzếnh trong bài thơ “Cảm xúc” để tỏ lòng ngưỡng mộ đến chị NGỌC ÁNH.
Cô gái Việt Nam ơi!
Nếu chữ hy sinh có ở đời
Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt Nam tươi.
25/08/201823:17:51
Khách
Chị ơi, em mê chữ nghĩa từ thuở mới biết đánh vần. Chị là người đầu tiên bủa vây suy nghĩ của em sau khi đọc bài của chị!
Em mới đọc lại bài của chị. Thật chậm. Như nuốt từng chữ. Với cảm xúc gờn gợn. Trân trọng. Cảm phục. Thương yêu.
Chị nhớ giữ gìn nha! Em sẽ cầu nguyện cho đời sống của chị.
Kính chị.
25/08/201814:39:13
Khách
Chị Ngọc Ánh ơi!
P. Hoa rất mừng là cuối cùng chị đã viết! Tiếp tục đi chị! Viết để trang trải nỗi lòng, để chia sẻ voi doc gia nhưng đau thương, sự dũng cảm mà chị và người chồng anh hùng ngày ấy đã trải qua, kể cả “cháu bé tù nhân” của chị. Chắc chắn là chuyện của chị sẽ lấy nhiều nước mắt của độc giả! Cám ơn “mối tình muộn” của chị đã mang chị đi khỏi cái nơi đau đớn ấy để bù đắp cho chị những mất mát trước đây.
Chúc chị và gia đình luôn vui vẻ hạnh phúc.
Phương Hoa
25/08/201811:44:28
Khách
Trích: “chàng đã làm mềm lòng trái tim tưởng đã hóa thạch của tôi từ những điều nhỏ nhặt”
Một trong những truyện tôi mê đọc nhất là truyện “Hai Thiêng Liêng” của Nguyễn Vỹ. Tình yêu và Tổ quốc là hai thiêng liêng của mọi người VN có trái tim và lương tâm VN. Trái tim của chị muôn đời không hoá thạch vì lúc nào cũng không bị hâm nóng vì tình yêu thì cũng cháy bỏng vì tổ quốc. Tình của chị mãi mãi không “Muộn” vì tình yêu của chị đã hòa hai thiêng liêng thành một, ngàn thu yêu anh và ngàn năm yêu quê hương.
Ôi, tôi muốn viết cả trang giấy về chữ “tình” của chị nhưng vì quá nghẹn ngào nên không biết viết gì thêm ngoài tấm lòng mến yêu chị quá đi thôi.
25/08/201810:01:52
Khách
Cam on tac-gia..da ke lai chuyen doi minh...rat cam phuc...
25/08/201809:36:15
Khách
Em, một Bà Trưng, bà Triệu của thế kỷ 20, đã vì tổ quốc, cùng chồng đứng lên đấu tranh cho tự do. Thật kính phục em và chồng, vì đại nghĩa mà xã thân. Chồng em đã bị kết án tử hình, em bị cảnh mười năm khổ ải trong tù và nhất là đứa con nhỏ dại vô tội cũng gánh chung cái thảm họa đó CS tàn ác gây ra! Còn gì đau đớn hơn nữa.
Em, một người đàn bà can trường. Ra khỏi ngục tù , con chịu cảnh tật nguyền, chồng đã hy sinh. Em vẫn tiếp tục đấu tranh bằng ngòi bút sắc bén, hầu vạch trần tội ác của CS . Một tấm gương yêu nước đáng cho hậu thế nói theo.
Hết cơn Bỉ cực tới hồi thới lại. Ngày nay, em đã được đến bù xứng đáng. Mùa xuân đã trở lại với em. Không muộn đâu. Cầu xin cho em suốt đời được hạnh phúc em nhé.
25/08/201809:01:06
Khách
Chị ơi, câu chuyện của chị bi hùng quá! Lối viết của chị vừa lạ vừa đẹp... em mong mỏi được đọc bài mới của chị.
Em kính chúc chị “cô dâu ở tuổi 50” đầu bạc răng long, hạnh phúc vĩnh hằng!
Trân trọng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 3,704,398
Tác giả là một cựu tù cộng sản, hiện sống ở Vail, Arizona, làm việc theo một hợp đồng dân sự với quân đội Mỹ, và từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông. Sau giải Đặc Biệt năm 2017, với bài viết của một dân sự gốc Việt từ căn cứ Mỹ tại Afganistan, ông được trao thêm giải Danh Dự VVNM 2018. Sau đây là bài viết mới của ông, từ Cameroon, một nước ở miền trung Phi châu.
Tháng Năm 2018, tại Việt Báo Gallery, có buổi ra mắt sách Anh ngữ "Finding My Voice—A Journey of Hope” tác giả Crystal H. Vo tức Võ Như Ý, một tác giả từng dự Viết Về Nước Mỹ từ 2009. Cô sinh năm 1970 ở Đà Nẵng. Năm 15 tuổi vượt biên cùng một người anh, tới Mỹ năm 1986 và thành công dân Mỹ với tên Crystal H. Vo. Cô hiện là cư dân San Gabriel, CA. và làm việc tại Sở Xã Hội Quận Hạt. Trong những năm ngừng viết về nước My,õ cô kết hôn, thành con dâu một gia đình Mỹ và đã dành trọn thì giờ để học sống và viết bằng Anh ngữ. Sau đây là bài viết mới nhất của cô sau họp mặt Viết Về Nước Mỹ năm thứ 19.
Tác giả tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016. Với sức viết mạnh mẽ, tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Sang năm 2018, bà có thêm giải Vinh Danh Tác Giả, thường được gọi đùa là giải Á hậu. Sau đây, là bài viết mới nhất, khi tác giả bay từ Arkansas về họp mặt Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX. Và...
Chỉ với bài viết đầu tiên, tới vào tháng cuối, Tác giả đã nhận giải Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX. Thư kèm bài, tác giả viết “Tôi tên Tố Nguyễn, đang làm tax accountant ở Los Angeles, thường xuyên theo dõi mục Viết Về Nước Mỹ. Tôi rất xúc động khi đọc những câu chuyện đời của người Việt trên xứ Mỹ, giờ tôi xin góp câu chuyện thật của tôi...” Sau bài đầu tiên, bước sang năm thứ 20 của giải thưởng, tác giả đang tiếp tục cho thấy sức viết ngày càng mạnh mẽ hơn. Sau đây là bài viết của cô về lần đầu họp mặt Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả sinh năm 1953, tốt nghiệp Sư Phạm Sài Gòn khóa 12. Vượt biên sang Mỹ 1982, và từ đó tới nay định cư tại San Jose; Nghề nghiệp: Mechanical Designer, về hưu tuổi 65. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của ông là chuyện vui về nhóm bạn trường Sư Phạm Sài Gòn, khóa cuối cùng, ra trường năm 1975, kèm lời ghi của tác giả: “Thân tặng các bạn lớp Nhất 9/Nhị 15, khóa 12 (1973-75) Sư Phạm Sài Gòn.”
Tác giả tên thật Nguyễn Hoàng Việt sinh tại Sài Gòn. Định cư tại Mỹ năm 1990 qua chương trình ODP (bảo lãnh). Tốt nghiệp Kỹ Sư Cơ Khí tại tiểu bang Virginia năm 1995. Hiện cư ngụ tại miền Đông Nam tiểu bang Virginia. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ cuối năm 2016. Với “Viên Đá Kỳ Diệu,” một trong bốn bài viết về nước Mỹ của ông, Thảo Lan đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ năm thứ 19.
Tháng Bảy, mùa Vu Lan, xin mời đọc bài viết về Mẹ của Minh Nguyệt Graves. Tác giả cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà là chủ tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Với sức viết giản dị mà mạnh mẽ, tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải Danh Dự năm thứ mười chín, 2018.
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006, đã nhận Giải Danh Dự, thêm Giải Á Khôi, Vinh Danh Tác Giả VVNM 2016, và sau 12 năm, vừa chính thức nhận giải Chung Kết Tác Giả Tác Phẩm 2018, với bài “Thằng Tý Con là... Con Thằng Tý”.
Tác giả cho biết ông nguyên là lính Hải Quân VNCH; 12 năm 4 tháng đúng tính đến ngày 30 tháng Tư 75, tự lái tầu vượt biển năm 1982, hiện định cư tại Úc. Sau đây là một bài viết mới của ông.
Họp mặt và Lễ Trao Giải Viết Về Nước Mỹ năm thứ 19 và Giải Bé Viết Văn Việt năm thứ 15 đã tưng bừng diễn ra trong không khí thân tình và hào hứng tại Nhà Hàng The Villa, Thành Phố Westminster, California, Hoa Kỳ, vào chiều tối Chủ Nhật, ngày 12 tháng 8 năm 2018