Người viết: Nguyễn Công Khanh
Bài số 4046-14-29446vb2102813Tác giả định cư tại vùng Seattle,
tiểu bang Washington từ năm 1975, đã hồi hưu hơn mười năm qua. Ông đã
nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2013 với bài viết đầu tiên và cũng là
bài duy nhất trong năm, kể về một gia đình có ba tôn giáo lớn của
thế giới kết hợp: Một con dâu Thiên Chúa Giáo, một rể đạo Phật, một
rể đạo Muslim, nhưng tất cả thuận hoà và đạo ai nấy giữ, các gia
đình liên hệ đều tôn trọng tín ngưỡng của nhau. Sau đây là bài viết
thứ hai.* * *
Trận tuyết đầu mùa đã đến sớm và tan trước ngày Lễ Giáng Sinh trên
vùng Tây Bắc. Năm nào cũng thế, anh chỉ mong tuyết rơi thật nhiều
đúng vào ngày đó để có thể lấy cớ từ chối hết mọi việc, được ở
nhà ngồi ngắm ngọn lửa hồng reo vui và nghe tiếng củi nổ lách tách
trong lò sưởi, hay nhìn ra cảnh vật huyền ảo bên ngoài. Tối đến có
thể ngồi xem tivi và lười biếng nằm ngu? quên trên ghế sô-pha trong
phòng khách. Nhưng chẳng năm nào được như ý!
Mới thứ sáu trước lễ Giáng Sinh, còn ngồi trong sở nhìn tuyết rơi
thêm dày đặc và phủ trắng hết mặt đường. Đang lo không hiểu làm sao
lái xe về nhà được thì một ông H.O. mới qua, tới gần khung cửa thốt
lên:
- Đẹp quá! Đẹp quá!
Anh quay lại nhìn, thoáng thấy một chút rạng rỡ trên khuôn mặt cằn
cỗi.
Ông ta nói tiếp:
- Lần đầu tiên trong đời tôi trông thấy tuyết rơi, ông ạ! Sáng nay, tôi
ra khỏi nhà, đi trên tuyết hàng giờ, lòng thấy thanh thản lạ thường
Buổi tối ngày hôm sau, vợ chồng anh đến nhà một người bạn họp mặt
với một số bằng hữu. Khung cảnh đẹp, không khí ấm cúng; cũng có
ngọn lửa hồng, cũng có những kỷ niệm xưa. Sau đó cả bọn chuếnh
choáng men rượu ngồi quàng vai nhau, vỗ bàn, gõ ly và cùng hát. Hát
những đoạn cu?a bài này quàng sang những đoạn cu?a bài khác, thành
một bản trường ca xuôi dòng từ sáu bẩy chục năm về trước, bất tận
và bất hủ.
Tự nhiên anh nhớ lại hình ảnh những người lính Lê Dương say rựợu ôm
nhau lảo đảo, hát nghêu nghao trên các hè phố vắng Hanoi, Saigon vào
các đêm Giáng Sinh xưa. Ngày nhỏ anh thường sợ và cố tránh xa họ. Sau
này mới biết trong những tiếng hát đó không phẳi chỉ có hơi rượu mà
còn có thể vương cả những giọt lệ của đời lính viễn chinh, một
chiều nào chợt thấy mình cô đơn, chợt nhìn thấy hình a?nh quê hương ở
một nơi nào đó, có thể là bên giòng sông Volga hay bên giòng sông
Danube.. đã nhòa trong nước mắt và biết là mình không mong có một
ngày về nơi làng cũ, bên gác chuông xưa với những người yêu dấu không
bao giờ quên.
Anh nghe lại những bài hát từ thời kháng chiến chống Pháp, anh nghĩ
rằng có những người bạn hôm đó, chắc gì đã không thấy thoáng qua
nỗi nhớ của những ngày theo các đàn anh vượt sông Hồng trong một đêm
không trăng, hay ngồi ghe dọc theo sông Bassac mênh mông xuôi dòng vào
Đồng Tháp. Chắc thế nào cũng có người không quên được những quãng
đường rừng, có tiếng chim kêu, có tiếng vượn hót, lại có cả tiếng
súng vang trong các vùng Đô Lương, khu Bốn, khu Năm, hay miền thượng du
Hà Giang, Việt Bắc..
Anh cũng lại được nghe những đoạn của các khúc tình ca não nuột của
thời tiền chiến, của những năm 1950, 60, 70. Chắc cu~ng có người nghĩ
đến những đêm về sáng cuối cùng của những lần nghĩ phép cố kéo
dài, Đứng ở đầu đường Tự Do, nghe lần chót tiếng một nữ ca sĩ vọng
lại từ một vũ trường, đang hát một bản nhạc tình ngăn cách, chia ly,
và ngày mai lại phải rời thành phố để bạt vào một vùng xa xôi nào
đó, tưởng như mình cũng vừa đem theo thêm một mối tình lỡ dở.
Ngày hôm sau nữa, đến đón hai vợ chồng một người bạn từ Michigan sang
làm lễ cưới cho cô em gái. Chị có một thời làm xướng ngôn viên cho
đài truyền hình ở Việt Nam; và anh là một giáo sư hội họa, có bức
tranh ‘‘Vượt Biển’’ vẽ từ hồi trong trại tị nạn được giữ trong bảo
tàng viện Tổng Thống Ford.
Hôm làm lễ cưới ở nhà thờ, phía nhà gái chỉ có hai vợ chồng người
bạn là anh chị cô dâu, và vợ chồng anh. Còn lại toàn là phía nhà
trai. Lúc đu+'ng trong thánh đường rộng thênh thang và khúc nhạc cưới
trỗi dậy, người anh rể thay mặt thân sinh cô dâu, còn ở Việt Nam, từ
ngoài theo điệu nhạc dìu cô dâu đi vào. Anh hình dung lại cô em nhỏ
đó, hồi nào mới bốn, năm tuổi vẫn thường hay đòi kẹo bánh các bạn
của chị mình, và nay đang thành gia thất. Anh nhìn chị bạn ở hàng
ghế trên, thấy chị đang cúi xuống chấm nước mắt. Bỗng nhiên anh cảm
thấy trong chỗ đông người cũng có sự cô đơn và trong ngày vui cũng có
những giọt nước mắt. Nhìn sang bên cạnh, vợ anh đang đưa khăn lên mắt.
Anh cũng thấy lòng dưng dưng cảm động.
Ngay tối hôm đó hai vợ chồng người bạn phải trở về Michigan. Có một
điều anh lấy làm ân hận không có đủ thì giờ để mời họ đi ăn phở;
tuy rằng ngày hôm trước cô em gái đã đưa họ đi thăm quán phở Bắc một
lần rồi.
Họ ở một vùng có ít người Việt, không có quán ăn Việt Nam. Anh có
cảm tưởng như sau cái nhiệm vụ sang đây làm lể vu qui cho cô em vợ,
mục đích của anh bạn là phải đi ăn phở. Cũng như anh mỗi lần lái xe
trên ngàn dặm xuống Cali, khi tới nơi, nhất định phải đến Bolsa làm
một tô phở trước đã, rồi tất cả mọi chuyện se~ tính sau. Anh bạn
họa sĩ thèm phở đến nỗi nếu không là đại diện nhà gái phải đưa cô
dâu chú rể đi chào các bàn tiệc thì hai người, anh và người bạn, có
thể đã trốn luôn để lẩn ra tiệm phở ngoài phố rồ!
Đã qua một Giáng Sinh bận rộn nhưng đầy ý nghĩa của tình bạn cũ
mới, và bây giờ anh đang chờ một cái Tết sắp đến. Năm nào cũng vậy,
cứ giờ này các con gái anh lại sắp nhờ:‘‘Bố ra gốc vườn cắt cho con
một cành cây thật đẹp để con làm cành mai.’’ Lắm khi anh cố ngồi suy
nghĩ mà giòng tư tưởng cứ bị gián đoạn vì tiếng mấy mẹ con rộn
rịp lo măng, miến, đậu gạo, để nấu bánh chưng và sửa soạn cỗ bàn
cho ba ngày tết. Nhiều lần anh đã bảo làm sơ sơ, giản dị thôi, bày
vẽ ra mệt quá. Anh nhớ đến một ông bạn chủ báo hay than: ‘‘Bà vợ tôi
quanh năm lúc nào cũng thấy cúng với giỗ. Ngày nào cũng thấy bà ấy
làm cỗ. Sợ có khi bà ấy làm nhầm cả sang ngày giỗ nhà người
khác’’.
Anh biết người bạn chỉ nói đùa nhưng anh nghĩ chính vì cách sống đó
đã làm cho mọi người cảm thấy gần gũi với tổ tiên và tưởng như
hình bóng tiền nhân lúc nào cũng phảng phất trong cuộc sống hàng
ngày. Mỗi lần ăn một bữa giỗ, mỗi lần nhìn các con anh thì thầm
những lời khấn nguyện với ông bà khuất bóng thì một lần nữa anh
lại thấy rõ ràng gần với cội rễ hơn.
Năm nay anh mong có thể ngồi thư thả nhấm nháp mấy miếng mứt, ngắm
mai vàng, nghe nhạc Xuân để cùng gia đình chờ giờ đi lễ Giao Thừa: và
ôn lại trong thời gian qua mình đã làm được những gì, những gì mình
đang làm và những gì mình sẽ làm.
Bên ngoài trời mưa rả rích. Thỉnh thoảng một cơn gió nhẹ lại thổi
tạt một lớp mưa bay lất phất vào cửa kính. Ngồi một mình trong nhà,
anh lười biếng chợt nghĩ nếu bây giờ có một người bạn nào đến rủ
đi ăn một bát phở nóng, và sau đó uống một ly cà-phê đen, ngồi nghe
những bản nhạc cũ và nói chuyện phiếm thì cuộc đời thật không còn
gì bằng.
Anh lại nhớ đến người bạn từ Michigan sang đây, cao lương mỹ vị không
thích mà chỉ thèm ăn phở. Trong một lúc, bao nhiêu kỷ niệm và giai
thoại quanh gánh phở được gợi lại. Anh nhớ hơn ba mươi năm trước đây,
lang thang trong trại tị nạn tại Cali, chỉ mong gặp được những người
quen cũ. Một lần gia đình anh ngồi cùng bàn ăn với một gia đình
khác. Ông chồng nhìn anh nhiều lần, muốn nói cái gì nhưng lại thôi.
Sau cùng, ông ta nói với anh:
- Tôi trông ông quen quá, không hiểu đã gặp ông ở đâu.
Anh cũng nhìn lại ông, cái hình dáng rất quen thuộc, có lẽ anh đã
gặp hàng ngày trong quãng thời gian trước. Anh nói:
- Tôi trông ông cũng quen lắm.
Cả hai lại tiếp tục ăn. Một lúc ông ta nhìn lại anh một lần nữa và
nói gần như reo:
- Chắc ông hay ăn phở Tàu Bay!
Anh cũng kêu lên:
- Thì ra mình đã gặp nhau ở tiệm phở.
Thành ra hình ảnh những người hay ăn phở như anh và ông ta đã thành
không tên, không tuổi, muôn thuở bàng bạc không quên. Có thể anh đã
trông thấy ông ta thường ngồi ở bàn dưới cái đồng hồ, hay dưới cuốn
lịch Tam Đa và thường gọi thêm một tô nước tiết mỗi sáng. Có thể,
sau khi ăn xong một tô xe lửa nóng toát mồ hôi, anh lại gặp ông ta trong
cái hẻm nhỏ bên cạnh, với một ly cà phê đá và vài chiếc bánh rán
nóng hổi.
Hồi ở Saigon, có một năm anh được gửi đi học Anh văn để chờ đi Mỹ du
học. Sáng nào cũng vội vàng ăn phở của một bà ở góc đường Sương
Nguyệt Ánh. Ăn xong đứng dậy trả tiền thì bà ta chỉ và nói là đã
có người trả rồi. Anh nhìn theo và một lúc mới nhận ra là một
người bạn cùng đại đội hồi học lớp sĩ quan hiện dịch tại quân
trường Đồng Đế, sau khi anh ra trường Quốc Gia Hành Chánh đã được
Tổng Thống Diệm gửi ra huấn luyện trước khi đưa về các quận. Những
ngày sau nữa trong lúc anh còn đang ăn, thì anh ta đến lúc nào, ngồi
ở chỗ nào cũng không hay. Khi anh trả tiền, thì lần nào bà hàng phở
cũng nói là có người trả cho ông rồi. Anh nhìn quanh cố tìm và lại
thấy anh ta cười xòa, hóm hỉnh. Nhiều hôm trễ cả học vì ngồi nói
chuyện lính tráng ngày xưa kẻ mất, người còn. Khi vào lớp trễ, cũng
may là các cô giáo trẻ không nỡ nặng lời với học trò già. Anh cố
lắ'm cũng chỉ trả được tiền phở vài lần, còn thì gần như luôn luôn
đượcc ăn miễn phí. Chắc anh bạn kia là một tay phở lì và nằm vùng
ở đó đã lâu. Anh cố nghĩ mà vẫn không hiểu tại sao anh ta lại nhớ
và biệt đãi anh như thế. Chỉ biết rằng anh bạn đang làm ăn khá giả
nhờ có cửa tiệm bán Vespa gần đó, ngay góc đường Hồng Thập Tự và
Lê Văn Duyệt.
Anh lại nhớ ồi xưa ông cụ sinh ra anh, cũng là một vua ăn phở. Mỗi
sáng đi làm, ông cụ thường ăn ở một quán phở sau sở Hỏa xa Saigon.
Quen quá đến nỗi như một tiền lệ bất di bất dịch, chú dọn bàn cứ
thấy bóng ông cụ ở đầu phố là đã cất tiếng gọi vào trong bếp:
- Một tái nạm hành trần, nước trong, một dĩa hành tây ngâm dấm!
Khi ông đến nơi là đã có sẵn sàng một tô phở ngon lành, nóng hổi
bốc hơi trước mặt. Có lần, ông cụ đi qua giả vờ không ghé, khiến chú
ta vừa bưng bát phở vừa kêu ơi ới:
- Tái nạm hành trần, nước trong, một đĩa hành ngâm dấm, có ngay rồi
đây cụ ơi!
Nếu đem góp nhặt tất cả các giai thoại về phở của anh và mọi người
thì chắc sẽ thành một trường thiên bất hủ không bao giờ hết. Nhất
là khi nghĩ đến những áng văn chương có hạng về phở.
Thi sĩ Tú Mỡ coi phở như một cái đạo và làm thơ thành kinh điển để
ca tụng phở:
...
Phở đại bổ! tốt bằng mười thuốc
bắc.
Quế, phụ, sâm, nhưng chưa chắc đã hơn gì.
Phở bổ âm, dương, phế, thận, can, tì,
Bổ cả ngũ tạng, tứ chi cùng bát mạch.
Anh em lao động, đồng tiền không rúc rích
Coi phở là món thuốc ích vô song.
Các bậc vương tôn, thường chả phượng, nem công
Chưa nếm phở vẫn còn không đủ món.
(Phở Đức Tụng)...Nói đến thơ phở, anh cũng không quên được cuốn ‘‘Yêu Tì’’ của Hoàng
Hải Thủy, trong đó ông có một nhân vật là thi sĩ, vì yêu con gái ông
chủ tiệm phở nên phải chịu làm bồi bàn để được gần người đẹp. Do
đó khách ăn phở nhiều lúc phải giật mình kinh ngạc khi thấy anh
‘‘bồi phở’’ gọi vào trong bếp:
Một phở tái, hai phở tái, ba phở
tái
Ngầu pín cắt lớn khoanh tròn
Gân mềm đừng lấy bạc nhạc,
Em ơi còn sụn không em!
Hành tây đừng quên đi nhé!Trong cuốn “Hà Nội Ba Mươi Sáu Phố Phường’’ của Thạch Lam có bài
‘‘Cốm’’ đã được chọn làm bài tập đọc hồi tiểu học, ít có ai quên.
Và hàng bún ốc với các cô đào về đêm ngồi ăn mà ‘‘nước ốc chua làm
soa suýt những cặp môi héo hắt và khiến đôi khi nhỏ những giọt lệ
thật thà hơn cả những giọt lệ tình...’’.
Có thể nói Thạch Lam là nhà văn đầu tiên viết về phở và các món ăn
Việt Nam: ‘’Đó là thứ quà suốt ngày của tất cả các hạng người,
nhất là công chức và thợ thuyền. Người ta ăn phở sáng, ăn phở trưa
và ăn phở tối’’.
Mãi đến năm 1957, phở lại được Nguyễn Tuân tán rộng trong tạp chí
Nhân Văn tại miền Bắc. Ông kể lại cảnh ông và một số bạn bè ngồi
bên hồ ở Helsinki, Bắc Âu, thèm nhớ đến bát phở ở quê hương. Vì bài
báo này mà ông đã bị đảng Cộng Sản chỉnh huấn là có tư tưởng hủ
hóa và ông đã phải hứa lột xác cùng phủ nhận tất cả các tác phẩm
trước của mình.
Nói về phở, không phải chỉ có nhà thơ nhà văn trên mà một số người
trong chúng ta coi ‘‘như không còn là một nón ăn nữa, nhưng là một thứ
nghiện như nghiện thuốc lào, thuốc lá, chè tươi, thuốc phiện.’’
Trong ‘‘Miếng Ngon Hà Nội’’ xuất bản cùng năm tại miền Nam, phở và
những miếng ngon, những hương hoa của đất nước lại được nhà văn Vũ
Bằng nói đến mà báo Nắng Sớm 1957 đã viết: ‘‘thật là sâu sắc, tế
nhị, thật là chan chứa tình cảm, chan chứa tình yêu đời, yêu
nước...’’
Anh Anh được biết người vợ đầu tiên của nhà văn Vũ Bằng là một
người có nhan sắc, hiểu biết rộng, quảng giao, lại vô cùng khéo léo.
Bà đã là một nguồn cảm hứng vô biên cho cuộc đời viết văn của ông.
Khi đất nước chia đôi, vì một sự không ngờ, hai ông bà phải xa nhau
trong cảnh kẻ Bắc người Nam. Suốt hai mươi năm trời, bao nhiêu nhớ
thương ông đã dồn vào các tác phẩm ông viết.
Trong cuốn ‘‘Miếng Ngon Hà-Nội’’, đã phảng phất hình bóng bà. Nhưng
đến ‘‘Thương Nhớ Mười Hai’’ thì ông đã viết hẳn cho bà. Một năm có
mười hai tháng. Mỗi tháng lại có một nỗi nhớ nhung riêng, những kỷ
niệm thương yêu cũ, những món ăn tinh vi cầu kỳ, đã đẹp mắt lại lạ
miệng, tự tay bà chăm chút nấu nướng để ông thưởng thức. Những trang
đầu của hai tác phẩm trên, ông đều đề tặng bà với những lời nhớ
thương tha thiết. Đang viết dở chừng cuốn ‘‘Thương Nhớ Mười Hai’’ thì
nghe tin bà mất ở Hà nội, ông đã khóc; ‘‘Thương không biết bao nhiêu,
nhớ không biết ngần nào người bạn chiếu chăn... cuốn sách này để
thay mấy lời ai điếu.’’
Đêm đã khuya, anh còn ngồi một mình trong căn phòng vắng. Hai tác phẩm
sau cùng của ông ở trước mặt, bài viết về phở của ông, anh vừa đọc
xong lần nữa; và tập bản thảo anh đang viết cũng ngổn ngang trên bàn.
Anh ngừng bút viết và chợt thấy thời gian như đã ngừng hẳn lại...
Hãy nghe Vũ Bằng tả sự hấp dẫn của một quán phở:
‘‘Ngay từ đằng xa, mùi phở cũng đã có một sức huyền bí quyến rũ ta
như mây khói chùa Hương đẩy bước chân ta, thúc bách ta phải trèo lên
đỉnh núi để vào chùa trong rồi lại ra chùa ngoài. Ta tiến lại gần
một cửa hàng bán phở: thật là cả một cảnh bài trí nên thơ.’’
‘‘Qua lần cửa kính, ta đã thấy gì? Một bó hành hoa xanh như lá mạ,
dăm quã ớt đỏ buộc vào một cái dây, vài miếng thịt bò tươi và mềm,
chín có, tái có, sụn có, mỡ có, mỡ gầu có, vè cũng có.. Người
bán hàng đứng thái bánh, thái thịt luôn tay, thỉnh thoảng lại mở
nắp một cái thùng sắt ra để lấy nước dùng chan vào bát. Mỗi lần
khói tỏa ra khắp gian hàng, bao phủ những người ngồi ăn ở chung quanh
trong một làn sương mỏng, mơ hồ như một bức tranh Tàu vẽ những ông
tiên ngồi đánh cờ ở trong rừng mùa thu.’
‘‘Trông mà thèm quá! Nhất là về mùa rét, có gió bấc thổi hiu hiu,
mà thấy người ta ăn phở như thế thì chính mình đứng ở ngoài cũng
thấy ấm áp ngon lành. Có ai lại đừng vào ăn cho được.’’
Và đây, bát phở Tráng, Hà Nội của Vũ Bằng
‘‘Cứ nhìn bát phở không thôi, cũng thú.’’
‘’Một nhúm bánh phở; một ít hành hoa thái nhỏ, điểm mấy ngọn rau
thơm xanh biêng biếc: mấy nhát gừng mầu vàng thái mướt như tơ, mấy
miếng ớt mỏng vừa đỏ màu hoa hiên vừa đỏ sậm như hoa lựu... ba bốn
thứ mầu sắc đó cho ta cái cảm giác được ngắm một bức họa lập thể
của một họa sĩ trong phái văn nghệ tiền tiến dùng mầu sắc hơi lố
lỉnh, hơi bạo quá, nhưng mà đẹp mắt.’’
‘’Thế là ‘‘bài thơ phở’’ viết xong rồi đấy, mời ông cầm đu~a. Húp
một tý nước thôi, đừng nhiều nhé! Ông đã thấy tỉnh người rồi phải
không?’
Thêm nữa, cả Vũ Bằng và Thạch Lam đều có những ‘‘định nghĩa’’ về
một bát phở ngon có nhiều điểm tương đồng. Thạch Lam viết:
‘‘Nếu là gánh phở ngon thì nước dùng trong và ngọt, bánh dẻo mà
không nát, thịt mỡ gầu dòn chứ không dai, chanh, ớt, với hành tây đủ
cả. Chả còn gì ngon hơn bát phở như thế nữa. Ăn xong bát thứ nhất,
lại muốn ăn luôn bát thứ hai.’’
Vũ Bằng đi xa hơn vào sự thưởng thức của tất cả ngũ giác và lại
đầy lãng mạn:
‘‘Nước dùng nóng lắm đấy, nóng bỏng rẫy lên, nhưng ăn phở có như thế
mới ngon. Thịt thì mềm, bánh thì dẻo, thỉnh thoảng lại thấy cái cay
của gừng, cay cái cay của hạt tiêu, cay cái cay của ớt; thỉnh thoảng
lại thấy thơm nhè nhẹ cái thơm của hành hoa, thơm hăng hắc cái thơm
của rau thơm, thơm dìu dịu cái thơm của thịt bò tươi và mền, hòa hợp
tất cả những vị đó lại, nước dùng ngọt cứ lừ đi, ngọt một càch
hiền lành, êm dịu, ngọt một cách thành thực, thiên nhiên, không có
chất gì là hóa học...Không, ông phải thú nhận với tôi đi: Có phải ăn
một bát phở như thế thì khoan khoái quá, phải không?’’
‘‘Quả vậy, ăn một bát phở như thế, phải nói rằng có thể ‘‘lâm ly’’
hơn là nghe thấy một câu nói hữu tình của người yêu, ăn một bát phở
như thế, thử có thể ví như sau một thời gian xa cách, được ngã vào
trong tay một người vợ đẹp mà lại đa tình vậy!’’
Anh đã thấy thật khó mà mọi người có một định nghĩa chung tàm tạm
về một bát phở ngon.
Nếu có đi ăn đến hàng ngàn tiệm phở, không tiệm nào giống tiệm phở
nào. Bát phở mỗi nơi có một phong vị riêng, một chút đặc biệt mà
nơi khác không có và do đó tiệm phở nào cũng có người ăn. Nhưng
những người sành ăn lại muốn biết thế nào là ‘‘chân giá trị’’ của
một bát phở. Nguyễn Tuân viết:
‘‘... Thật ra, ăn phở cho đúng, đúng cái‘‘gu’’ của phở phải ăn thịt
chín. Thịt chín thơm hơn thịt tái, mùi thơm miếng thịt chín mới biểu
hiệu đúng cái tâm hồn của phở. Thêm nữa, về mặt nhãn thức tạo hình
người thẩm mỹ bao giờ cũng thấy miếng thịt chín đẹp hơn miếng thịt
tái.’’
Vũ Bằng cũng viết:
‘‘Muốn biết chân giá trị của nó, theo lời người biết ăn phở, phải
là thứ phở chín không thôi, phở chín mà ngon thì mới thật là ngon
đấy.’’
Và ông nhất định đi tìm cái chân giá trị đó:
‘‘Thực ra, điều quan hệ trong một bát phở là cái bánh, nhưng thứ
nhứt, như trên kia đã nói, phải cần có nước dùng thật ngọt. Bí
quyết là ở chỗ đó. Và tất cả những hàng phở đều giữ cái bí
quyết ấy rất kín đáo, y như người Tàu giữ của, vì thế cho nên trong
làng ăn phở, vấn đề nước vẫn là vấn đề then chốt để cho người ta
tranh luận.’’
Không phải tiệm phở nào cũng có phở ngon hợp với khẩu vị mình. Và
không phải một tiệm phở ngon là ngày nào cũng có phở ngon. Có tiệm
làm không đều tay, lúc ngon lúc dở, khiến thực khách đôi khi phải bực
mình thấy lòng trung thành của mình không được đáp ứng. Thạch Lam
viết ‘‘Có người nào chịu khó đi khảo một lượt vị phở xem sao, chắc
có lắm điều mặn, chát, chua, cay’’ Ông phản đối những gánh phở cải
lương, muốn thay đổi cái nguyên vị và ông trung thành với ‘‘lối phở cổ
điển cũng như ưa nghe tuồng chèo giữ đúng điệu xưa.’’
Vũ Bằng cũng thế, ông cũng đồng ý phải giữ cái hương vị cố hữu và
ông có một nhận xét rằng ‘‘Nói đến vấn đề ăn phở thì người Việt
Nam quả là khó tính lạ lùng.’’
‘‘Người sành ăn phở, người ăn phở kỹ càng không thể dễ tính, nhất
tề bước vào một cửa hiệu phở thứ nhất nào để mà ăn liều ăn
lĩnh.’’
‘‘Nhiều người cho rằng sở dĩ thế, ấy là vì món phở đứng cao hơn
mọi sự lừa bịp của thời nay; phở ngon là ngon, chứ không thể lừa
dối người ta được.’’
‘‘Thì ra phở không phải chỉ là một món ăn, một sự thích thú cho
khứu giác, nhưng còn là một vấn đề: Vấn đề ăn phở và vấn đề làm
phở.’’
Vì thế khi ăn phở xong, mọi người thường bàn luận tất cả những vấn
đề quanh bát phở kỹ lắm.
Hương vị phở vẫn như xưa, nhưng ngoại cảnh đã thay đổi nhiều. Ngày
trước thường là phở gánh rong, mà Tha.ch Lam đã tả ‘‘anh hàng phở có
tiếng rao, có người rao nghe quạnh hiu như tiếng bánh dầy giò đêm đông
trong một ngõ khuất.’’ Sau này là những xe phở, tiệm phở đóng đô ở
một chỗ cố định và thực khách phải tìm tới ăn.
Người ta ăn phở bất cứ lúc nào vì phở là một ‘‘món quà căn bản’’. Thường
thì ăn phở để điểm tâm, để ăn thêm ngoài các bữa cơm, nhưng nay sang
Mỹ phở lại được coi như một bữa ăn chính cho những người không đem
theo túi lunch hay bỏ bữa cơm chiều.
Tìm hiểu tên các hàng phở, cũng có nhiều điều thú vị. Ngày xưa,
phở gánh thường không có bảng hiệu, nên thực khách đã phải tìm các
sước hiệu để gọi cho dể nhớ. Có thể là đặc điểm của từng anh hàng
phở như phở Trọc, phở Cao, phở Gù, phở Lắp, phở Sứt... Có thể bằng
những địa danh mà gánh phở ngự trị như: phở Ga, phở Gầm Cầu, phở
Cửa Bắc, phở Nhà Thương... Và đặc biệt nhất là bằng tên cái mũ mà
anh hàng phở đội trên đầu như phở Bê-Rê, phở Mũ Dạ, phở Mũ Đỏ, và
có những anh nhặt được ở đâu những cái mũ của lính tàu bò, tàu bay
mà đã tạo nên sự nghiệp và tên tuổi.
Nguyễn Tuân khám phá ra rằng: không có một hàng phở nào nổi tiếng
lại có những tên dài lê thê hay trầm bổng du dương như ‘‘phở Thu Phong’’
hay ‘‘phở Bạch Tuyết’’ cả. Ông nghiệm ra ‘‘cái tên càng độc âm ngắn
cộc, càng đáng cho người ăn tin cậy; cái tên một chữ gọn như một
nhát dao thái xuống thịt chín.’’
Nhà văn Vũ Bằng đã sống nhiều năm ở miền Nam, Chắc ông đã thưởng
thức biết bao nhiêu bát phở Saigon, nhưng vì ông quá thương nhớ đến bà
vợ, nên bất cứ món ăn ở đâu cũng không thể sánh bằng những món ăn ở
Hà Nội.
Riêng anh thì thấy phở ở Saigon không có gì thua kém phở Hà Nội. Anh
vẫn nhớ những bát phở 79 đường Võ Tánh, ăn trong những ngày đầu tiên
đến Saigon, vẫn có những hương vị thanh tao như mùa thu Hà Nội. Rồi
đến những bát phở Tàu Bay sung mãn như đồng bằng Cửu Long; và những
bát phở gà Hiền Vương, Trương Minh Giảng nước trong, thịt trắng ngà
cạnh những da sợi tơ vàng, và có lúc lại được điểm thêm vài chùm
trứng non màu hoàng yến trông thật là vô cùng ngon mắt. Cái thiên
kiến của Vũ Bằng nhiều lúc cũng có trong anh và nhiều người. Ăn bát
phở nơi này la.i nhớ đến bát phở nơi kia. Ăn miếng ngon bây giờ lại
nhớ đến miếng ngon ngày trước. Có lẽ vì thế cái tình quê hương của
chúng ta lúc nào cũng day dứt không bao giờ nguôi.
Anh đã được ăn những bát phở suốt dọc Việt Nam. Những bát phở từ
thuở ấu thờì của những gánh phở đầu phố ở Hanoi. Những bát phở
thơ ngây ‘‘chưa biết mùi đau khổ ấy, chưa nhiễm mùi phức tạp, không
cần hành hăng, không cần chanh chua, không cần ớt cay.’’ của Tha.ch Lam
Những ngày còn là học trò từ vùng kháng chiến trở về thành, thỉnh
thoảng có tiền, anh cũng mò đến phở Tráng hàng Than, mà nhà văn Vũ
Bằng và nhiều người cho là ‘‘Vua phở 1952’’. Tay cầm chiếc bát không,
anh cùng đứng chung với các ông thông, ông phán đạo mạo chờ đến lượt
mình. Ăn xong, lại chờ đến lượt để trả tiền. Thật là sốt ruột.
Anh đã lớn lên với những bát phở ở Hanoi, sau khi đất nước chia đôi,
anh lại trưởng thành với những bát phở ở Saigon. Anh ăn phở gần như
hàng ngày, tại những quán phở có tên tuổi như Tàu Bay, 79, Tương Lai,
phở Hòa, Hòa Cựu... hay những xe phở đầu đường không ai cần nhớ tên
và cũng chỉ gọi bằng những biệt danh, như các gánh phở ngày xưa.
Anh lại nhớ những bát phở vội vàng tại bến xe, ăn cố trước khi xe
chạy, đưa anh về một vùng nào mịt mù xa xôi, và không biết lúc nào
trở về để có thể lại ăn phở nữa. Rồi còn những bát phở cặn cuối
cùng về khuya cùng bạn bè sau khi tan ở vũ trường ra. Những bát phở
trưa trong quán vắng, trong những ngày lang thang ở thành phố, với
tuổi trẻ buồn nản trôi qua.
Anh đã được ăn những bát phở tại Đà Nẵng, cạnh Air Viet Nam những năm
1955, 56 mỗi lần nghỉ hè về thăm gia đình và nhớ lại những hàng
phượng vĩ đỏ rực dọc sông Hàn, mà sau đó ít khi có dịp trở lại.
Những bát phở trong tiệm ‘‘Số 1’’ ở Nha Trang, ăn vội trước khi trở
lại quân trường để kéo dài hàng tuần với những bữa ăn ‘‘hỏa tốc’’
có món thịt bò dai như vo? xe hơi.
Anh cũng đã cố đi tìm, nhưng chưa được ăn một bát phở nào ở Huế,
Cần Thơ, Long Xuyên hay Rạch Giá hồi đó, mà chỉ có những bát bún bò
Đông Ba, hủ tíu Long Xuyên và bún suông Kiên Giang.
Nhớ nhất là những ngày đang yêu tha thiết em một người bạn. Những
lần từ đảo xa trở về Saigon, nhiệm vụ của anh là ngày ngày trung
thành đến thăm anh bạn. Trong khi chờ người yêu đi học về, anh lại ra
chầu ngoài quán phở Tích đầu đường. Anh vừa ăn phở, uống cà-phê vừa
nghe một thực khách quen thuộc đẹp trai, tài hoa, hát hay lại nhẩy
giỏi là Trần Ngọc Dương tức Dương Bò đau khổ bấm những phím lục
huyền cầm và hát bài Tôi ?ưa Em Sang Sông’’. Tự nhiên, trong tim anh
cũng thấy bồi hồi và lo lắng.
Những bát phở, sau khi đã có gia đình, bên người yêu xưa với lũ con
nhỏ. Sau những buổi cơm chiều, tất cả lên xe ra khỏi nhà đi chơi. Tối
khuya lại áp vào mấy tiệm phở đường Pasteur. Anh khó có thể quên
được những buổi tối Saigon trời trong gió thổi mát rượi, gia đình anh
ngồi cùng với bạn bè chiếm hết cả dẫy bàn, bên những bát phở tái
sách, gầu, vè, sụn, sữa. Chắc nhiều người còn nhớ món thịt sữa
này. Đó là thứ thịt ở phần vú con bò, những miếng thịt được thái
mỏng màu ngà, mùi vị vừa dòn vừa ngọt nên rất được ưa chuộng, nếu
đến trễ là ít khi nào còn.
Sau đó là những ngày đầu định cư trên đất Mỹ. Hàng tuần anh lại
được ăn những bát phở dò dẫm, khám phá ở nhà hay của bạn bè. Mọi
người quây quần, vừa ăn vừa khen. Người thì gật gù, giọng khuyến
khích:‘‘Cũng gần giống phở’’, người thì nhiệt thành hơn, kêu:‘‘Giống
quá! Giống quá!’’ và ngậm ngùi nhớ đến những bát phở ở quê hương
mà mình vừa rời bỏ.
Gần chục năm sau, đồng bào đến càng ngày càng đông và tiệm phở mở
càng ngày càng nhiều. Anh lại được ăn những bát phở ly hương dọc theo
Thái Bình Dương bên Mỹ. Seattle với những tiệm phở chính danh, chỉ
chuyên về phở: Phở Bắc, Tàu Bay, phở Hòa và những bát phở trong
những tiệm ăn khác.
Xuống Portland, anh ăn phở Trường. Đến Los Angeles anh ăn phở Bolsa, phở
79, Nguyễn Huệ, và có một thời phải ghi tên chờ đợi để được dẫn
vào bàn ăn phở Hòa. Đến Houston, được cc bạn đưa đến Phở Bình Mobile
Home. Mỗi lần sang thăm Houston anh vẫn nhắc đến cái tên hiệu cũ đó.
Quán phở vẫn còn đó. Ăn bát phở mà nhớ lại những ngày bơ vơ mới
đến đất Mỹ.
Sang miền Đông, anh ăn những bát phở Đại Tây Dương ở Washington DC và
xuống Richmond, Virginia anh lại được vợ chồng cô em gái mời ăn phở
nhà, có nêm một chút mắm ruốc khiến nước phở có vị ngọt và mềm
một cách lạ.
Anh còn muốn đi khắp nước Mỹ, từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam để
được thưởng thức những bát phở của đồng bào anh. Anh lại còn muốn
đi khắp cả thế giới, đến những nơi có đồng bào anh cư ngụ. Từ Canada
qua Pháp, Anh, Ý, Đức tới Sydney, Melbourne, Úc châu... để được đến
những quán Việt Nam, mà chắc nơi nào cũng vẫn giữ ít nhiều mùi vị
cố hữu của bát phở quê hương.
Bây giờ thì phở đã đi quá xa, đi khắp năm châu. đâu đâu cũng chiếm
được khẩu vị của mọi người. Phở cũng đã được chọn vào hàng “Top
Ten” trong danh sách các món ăn quốc tế tại Mỹ. Riêng tại Hà Nội, có
thời phở làm bằng thịt bò Kobe của Nhật, đã phá kỷ lục vượt bực
trong cái bảng giá, 50 đô-la một tô, đắt gấp mấy lần giá các bát
phở trung bình trên thế giới, nói gì đến những bát phở bình dân ở
Việt Nam. Người ta thường thấy chỉ có các đại gia hay các quan chức
được công xa chở đến ăn sáng. Chỉ phiền một nỗi là số đông quần chúng
vẫn vất vả không kiếm nổi một đô la một ngày.
Không biết nếu Thạch Lam, Vũ Bằng sống lại có choáng váng vì bát
phở thịt bò Kobe không, mà trước kia lúc nào các ông cũng ca tụng
những bát phở thanh đạm, truyền thống, miếng ngon của quê hương. Không
biết Nguyễn Tuân có tức uất vì có lần ông đã thú nhận thèm nhớ
bát phở khi đi công tác xa quê hương. Vì bài viết này ông đã bị hạ
tầng công tác và gặp bao khó khăn với chính quyền thời đó. Bây giờ
thì chính cái đám con cháu của đám người vùi dập ông, lại phởn phơ
ngồi ăn những bát phở sang gấp trăm lần hơn bát phở thời bao cấp mà
lúc đó ông thèm muốn.
*
Anh ngồi nhớ lại nhớ đến những người xưa, như Thạch Lam trong đám
người ăn phở, như những ‘‘người đều hợp lòng trọng sự thưởng thức
món qùa ngon, nâng cách ăn phở lên hàng nghệ thuật đáng kính’’.
Đến Vũ Bằng nói tới ‘‘những miếng ngon mà người Việt Nam ăn vào
thấy ngát mùi đất nước Việt Nam, thấy mình Việt Nam hơn, và thấy
thích thú, kiêu hãnh được trời cho làm người Việt Nam.’’
Hơn thế nữa, có Nguyễn Tuân, dù sống trong chế độ Cộng Sản bao năm
cũng vẫn còn thần thánh hóa bát phở, trong một ngày xa quê hương:
‘‘Tôi thấy rằng trong muôn vàn thực tế phong phú của nhân dân Việt Nam,
có một cái thực tế mà hằng ngày ít ai nỡ tách rời nó, tức là
cái thực tế phở. Cái thực tế phở ấy lồng vào trong cái thực tế
vĩ đại của dân tộc. Trong một giọt nước rơi lóng lánh có cả câu
chuyện của vầng thái dương; trong miếng ăn, cũng thấy rộng được ra
những điều cao cả yên vui trên đất nước bao la tươi đẹp. Tôi thấy tổ
quốc ta có núi cao vòi vọi điệp điệp, có sông dài đằng đẵng, có
biển bờ thăm thẳm, có những con người Việt Nam dũng cảm xây đắp lịch
sử quang vinh, những công trình lao động thần thánh; nhưng bên cạnh
những cái đó, tôi biết rằng Tổ quốc tôi còn có phở nữa.’’
Còn riêng anh, cứ mỗi lần nhớ đến ông cụ thân sinh trước đây ngày
ngày vẫn trung thành đáp xe bus lên phố đến tiệm phở, và cứ mỗi lần
anh thấy đàn con cháu vẫn ăn phở một cách say sưa, thì anh vẫn mãnh
liệt tin rằng cái tinh thần Việt Nam dù thế nào và dù có ở nơi đâu
thì cũng vẫn còn và sẽ còn mãi mãi.
Nguyễn Công Khanh