Hôm nay,  

Tuyết Rơi

26/12/200800:00:00(Xem: 983469)

Tuyết Rơi

Tác giả: Phan
Bài số 2491-16208568-vb6261208

Tác giả là một nhà báo, phụ trách mục "Chuyện Vỉa Hè" trong Ca Dao Magazine ở Dallas, đã góp nhiều bài đặc biệt và nhận Giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2007. Sau đây là bài viết của ông dành cho mùa giáng sinh.

***
Cứ mỗi lần thấy tuyết rơi, ông Phong lại nhớ đến cánh đồng tuyết ở Bắc Âu.
"Cánh đồng bạt ngàn biến thành biển tuyết khi đông sang. Ở đó, có ngôi làng cách xa thị trấn vừa bằng cánh đồng, những người sống trong làng đếu biết nhau. Ngôi nhà người tiều phu đốn củi ở ven rừng gồm vợ chồng và hai con nhỏ, họ sống trong túp lều đơn sơ nhưng ấm êm hạnh phúc. Khi những chiếc lá vàng theo gió báo thu sang thì người tiều phu đi sớm-về muộn hơn bình thường để có nhiều củi hơn cho vợ ông tích trữ đủ dùng mùa đông, phần dư ra đem bán cho hàng xóm, lấy tiền mua lương thực cho gia đình dùng suốt mùa đông giá vì sang xuân mới đi rừng lại được.
   Mùa thu năm ấy ngắn để những bông tuyết vội bay về xoá dấu ngày đi. Người tiều phu không về nhà nữa từ cái trợt chân nơi hẻm núi. Ông để lại thế gian người vợ thẫn thờ và hai con thơ dại. Phong tục ở đây là nhà nào có đám tang thì không nổi lửa, những người hàng xóm sẽ đến viếng thăm, chia buồn cùng tang quyến, và không bao giờ quên mang theo thức ăn họ nấu cho tang gia, coi như sự chia sẻ của láng giềng với gia đình không may. Từng nhà hàng xóm giàu hay nghèo, rộng lòng hay keo kiệt, thương thích người quá cố và tang gia hay không"... Mâm thức ăn họ đưa đến sẽ nói lên tất cả.
    Tuyết đã rơi dày trước ngõ, gia đình người tiều phu vắn số thoáng hiện ở ven rừng theo ánh nắng mùa đông yếu ớt. Người quả phụ cô đơn nhìn hai con và lương thực tích trữ trong nhà không thể nào đủ sống qua mùa đông. Bà cất đi nỗi đau buồn, thương tiếc người chồng quá cố, người cha thương kính của hai con. Bà đi xin giúp việc cho hàng xóm. Ai cũng thương cảm cho hoàn cảnh của bà nên họ thuê bà kéo nước giếng, người khá giả hơn thì thuê bà giặt màn cửa để chuẩn bị đón Giáng Sinh đang về, người thuê bà bửa củi để đốt lò sưởi vì mùa đông đến sớm... Người quả phụ u sầu cùng vất vả tới kiệt sức. Khi tiếng chuông nhà thờ lảnh lót Mừng Giáng Sinh, đã chấm hết công việc bà có thể làm để nuôi con. Trở về túp lều giá băng với quần áo ba mẹ con không đủ ấm, củi đốt lò sưởi không còn vì đã bán hết để mua lương thực - lương thực cũng không còn. Một Giáng sinh không đủ no và đủ ấm trong túp lều người tiều phu vắn số đã bỏ lại vợ con trên thế giới vô tình. Người vợ nghĩ ra sinh kế mới! Sáng hôm sau, bà vác túi vải đi khắp xóm làng, hỏi ai muốn mua gì ngoài thị trấn thì bà sẽ đi mua cho họ để lấy chút tiền công mà mua lương thực cho con. Những người láng giềng sẵn sàng trả công đi chợ cho bà vì không ai nghĩ tới chuyện băng qua cánh đồng tuyết mùa này chỉ để mua ít đường, bơ, sữa...
   Bà lội qua cánh đồng tuyết trong nỗi buồn số phận. Cũng may ngoài thị trấn có ngôi nhà trắng là ngôi nhà của một thương gia giàu có nhất trong vùng, chỉ cần đến đó là mua được tất cả những gì hàng xóm nhờ mua. Phần tiền công ít ỏi của láng giềng cho, bà mua lương thực cho con. Nhưng sức lực người đàn bà thường đói, khổ, thêm âu sầu về người chồng mới qua đời nên chẳng được bao lâu thì bà đổ bệnh. Những cơn sốt do cảm lạnh làm khổ thân nhưng bà được sống hạnh phúc bên chồng dù chỉ là những cơn mơ sảng của người cảm lạnh. Khi tỉnh dậy vẫn không có gì để nấu cho con ăn, bà lại chìm vào những cơn sốt, những giấc mơ bên chồng và hai con trong ấm no hạnh phúc... Lần tỉnh lại sau cùng, đứa con trai đã vắng nhà. Em gái nhỏ nhoi của nó cứ lảm nhảm trong cơn đói. Con bé nói sảng khi ngất đi vì đói bên mâm cơm nhà trắng trong mê man vì hôm cha nó mất, ông chủ nhà trắng có cho gia nhân bưng vô mâm cơm thịnh soạn nhất trong căn lều này từ khi nó được sinh ra. Lần đầu trong đời, con bé biết đến thức ăn ngon.


   Thằng bé đi lại những dấu chân của mẹ vì chẳng ai băng qua cánh đồng tuyết mùa này. Nó đem về cho xóm làng những thứ họ cần để có thể đem về nhà được ít lương thực cho mẹ và em. Nhưng cũng chỉ vài hôm thì sức cùng lực kiệt, thằng bé lên cơn sốt vì cảm lạnh. Nó nằm chờ chết. Người mẹ tuyệt vọng trong bệnh hoạn, cố tìm kiếm mẩu khoai hay bất cứ thứ gì còn xót lại trong lều để nấu cho đứa con gái lả đi vì đói, nhưng không tìm được gì có thể ăn. Con bé mê sảng vì đói đã ăn ngon lành bữa cơm nhà trắng trong mơ để chợt tỉnh! Nó thỏ thẻ vô tai mẹ: Mẹ ơi! Chừng nào anh con chết""

*
Cứ mỗi lần thấy tuyết rơi, ông Phong lại nhớ đến người cha đã trợt chân trong một cuộc chiến tranh nhưng lại mất mạng trong trại tù cải tạo. Nhớ người mẹ vượt suối băng rừng dầu dãi nắng mưa đi chợ mướn cho khu kinh tế mới để có chút tiền công mua lương thực cho con. Người mẹ làm thuê bất cứ việc gì người khác mướn, bán hết tất cả - trừ nhân phẩm. Người mẹ cầy thuê cuốc mướn bằng hai bàn tay ngọc đã gục chết vì ngộ độc khoai mì sau bữa ăn cuối cùng với hai con thơ dại. Nấm mồ người mẹ không quan tài, không nhang khói, hoang vu nơi bìa rừng đã thấm hết nước mắt hai con lần từ giã cuối cùng. - Những củ khoai mì do đứa con trai đã đi chợ thuê thay mẹ để có miếng ăn cho gia đình khi sức bà cạn kiệt, tinh thần khủng hoảng tới tận cùng vì tin chồng đã chết chốn rừng sâu. Trong căn chòi tranh gió rét cuối năm lòn qua vách trống. Đứa em gái thơ ngây không còn mẹ để hỏi: "Chừng nào anh con chết"" Nó đã đi hoang và chết trong trại phục hồi nhân phẩm vì những cơn nghiện xì ke vật vã tới tử vong. Ông Phong ân hận suốt đời vì không tròn trách nhiệm với em gái khi cha mẹ đã qua đời. Cuộc ra đi bất ngờ đã cứu được đời ông nhưng giàu sang phú qúy hôm nay đổi bằng cái chết của cô em bơ vơ giữa dòng đời nghiệt ngã chốn quê nhà. Nước mắt ông tự chảy mỗi lần nhìn tuyết rơi. Lòng ân hận trắng trời như tuyết phủ, tuyết rồi tan khi mặt trời lên, mặt đất hồi sinh. Chúa nhân từ không để cho ai chết hết cả gia đình, nhưng người còn hít thở mà cõi lòng đã chết theo thân nhân là thành quả cách mạng ở quê ông. Ông không hiểu lòng đất sao lại sản sinh ra một chủ nghĩa làm ô uế địa cầu.
Cứ mỗi lần nhìn tuyết rơi, ông Phong lại nhớ cánh đồng tuyết bên bắc Âu, không biết đứa bé trai có qua được kiếp nạn; đứa bé gái có đi vô con đường cùng; người mẹ có bỏ lại hai con bơ vơ, lạc lõng trên cõi đời ô trọc"... Điều ông biết duy nhất là lòng người trên dương thế đã khép lại! Nhớ câu chuyện không tên mà ông đã đọc từ tờ giấy gói xôi trên con đường đến trường buổi sáng. Thời quá độ ở quê ông, học trò thức dậy thì đánh răng bằng muối rồi đi học với cái bao tử trống trơn. Trên con đường đất đỏ thân quen rộn rã mùa thu về với những chiếc lá vàng bay xào xạc nhưng lòng ông rộn rã hân hoan vì tờ tiền từ trên chiếc xe đò chạy ngang qua đã bay xuống mặt đường. Ông nhặt được tiền vừa bằng gói bắp trắng có dừa bào, muối đậu phộng thơm lừng tuổi nhỏ. Ăn hết bắp trên miếng lá chuối và cái muỗng bằng khúc lá dứa cắt ra. Miếng lá chuối được ông trả nó về cát bụi, miếng giấy có chữ xé ra từ cuốn sách, cuốn truyện nào đó mà người bán bắp nấu lót dưới miếng lá cho đỡ nóng tay đã in sâu đậm vào hồn ông câu hỏi: "Chừng nào anh con chết"" Nên mỗi lần nhìn tuyết rơi, ông Phong lại tự hỏi: "Sao mình không chết" Những người gieo rắc khổ đau, chia lìa cho lương dân sao không chết"" Hành tinh bao giờ mới hết những cuộc đời thừa; những tư tưởng, chủ nghĩa chỉ làm băng hoại tình người. Nhưng tuyết thì cứ rơi cho lương tri hèn mọn khắc khoải hơn. Tuyết chỉ đủ sức làm thức tỉnh những linh hồn còn có niềm tin để đi làm từ thiện. Tuyết không vùi lấp được bạo quyền và u mê của chủ nghĩa vô thần. Tuyết rơi ngập hồn ông Phong cho tới tiếng chuông nhà thờ Mừng Giáng Sinh lảnh lót... một năm nữa qua đi.
Phan

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 833,344,795
Con đường dài nhất của người lính không phải là con đường ra mặt trận, mà chính là con đường trở về nhà. Đúng vậy, con đường trở về mang nhiều cay đắng, xót xa của vết thương lòng, của những cái nhìn không thiện cảm của người chung quanh mình, và nhất là những cơn ác mộng mỗi đêm, cho dù người lính đã giã từ vũ khí mong sống lại đời sống của những ngày yên bình trước đây.
Khanh con gái bà chị họ của tôi, sinh năm Nhâm Tý xuân này tròn 48 tuổi, ông bà mình bảo, Nam Nhâm, Nữ Quý bảnh nhất thiên hạ. Mẹ nó tuổi Quý Tỵ, khổ như trâu, một đời vất vả gánh vác chồng con, con bé tuổi Nhâm mạnh mẽ như con trai nhờ ông ngoại hun đúc từ tấm bé.
Nhìn hai cây sồi cổ thụ ngoài ngõ cũng đủ biết căn nhà đã trả hết nợ từ lâu. Hai cái xe Cadillac của người già không lên tiếng nhưng nói biết bao điều về nước Mỹ. Khi còn trẻ thì người ta không có tiền để mua những cái xe đắt tiền như Cadillac, Lincoln. Những cô cậu thanh niên mắt sáng, chân vững tay nhanh, chỉ đứng nhìn theo những chiếc xe bóng loáng, mạnh mẽ…
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Bà định cư tại Mỹ từ 26 tháng Ba 1992, hiện là cư dân Cherry Hill, New Jersey. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả
Tác giả đã nhận Giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2019. Là con của một sĩ quan tù cải tạo, ông đã góp 3 bài viết xúc động, kể lại việc một mình ra miền Bắc, đạp xe đi tìm cha tại trại tù Vĩnh Phú, vùng biên giới Việt-Hoa Sau đây là bài viết mới nhất của Ông nhân ngày lễ Tạ ơn
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 9, 2018. Ông tên thật Trần Vĩnh, 66 tuổi, thấy giáo hưu trí, định cư tại Mỹ từ năm 2015, hiện là cư dân Springfield, MA. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả tên thật Nguyễn Hoàng Việt sinh tại Sài Gòn. Định cư tại Mỹ năm 1990 qua chương trình ODP (bảo lãnh). Tốt nghiệp Kỹ Sư Cơ Khí tại tiểu bang Virginia năm 1995. Hiện cư ngụ tại miền Đông Nam tiểu bang Virginia. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ cuối năm 2016.
Tác giả đã kề cận tuổi 90 và lần đầu nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2019, với bài về Washington D,C. Mùa Lễ Chiến Sĩ Trận Vong và Bức Tường Đá Đen khắc tên các tử sĩ trong cuộc chiến Việt Nam.
Tác giả đã kề cận tuổi 90 và lần đầu nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2019, với bài về Washington D,C. Mùa Lễ Chiến Sĩ Trận Vong và Bức Tường Đá Đen khắc tên các tử sĩ trong cuộc chiến Việt Nam.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7/2018, với bài “Thời Gian Ơn, Ngừng Lại”. Tên thật: Nguyễn Thị Kỳ, Bút hiệu: duyenky. Trước 30.4.1975: giáo viên Toán Lý Hoa-Tư thục-Saigon-VN.