*
Người viết: CHÚC CHÂN
Bài số 578-1116 VB7030704
Tác giả tên thật Hùng Túy Trước, tuổi Giáp Ngọ, cư trú tại Austin, Texas, đã 18 năm làm công việc một kỹ sư. Chúc Chân đã góp một số bài Viết Về Nước Mỹ đặc biệt, và đã được trao tặng giải thưởng danh dự năm thứ ba 2004. Bài viết mới nhất của bà là chuyện di dân tị nạn. Từ chuyện một nghệ nhân Hoa Lục trọn đời thấy mình là người tị nạn dù nơi ông định cư là Hồng Kông, lãnh thổ Trung Quốc, tới tâm sự của chính tác giả: Người Mỹ, gốc Việt, dòng Hoa.
*
Con búp bê làm bằng tay nhồi gòn có cặp tóc thắt bím bằng chỉ len đen bỏ thòng hai bên khuôn mặt chẹt lét làm bằng vải màu hồng, đôi mắt ti hí chỉ là hai vạch sơn đen nằm dưới hai vệt lông mày màu nâu ngắn, miệng nhoẻn cười bên hai gò má tròn tô cùng màu đỏ. Nó mặc chiếc áo cộc bằng vải thô gài xéo màu trắng sọc xanh, chiếc quần vải thô đen, chân mang đôi giầy vải đen. Trên lưng nó đeo cái đảy cột bằng vải đỏ, một chú nhóc con đầu trọc ngồi với túm tóc nhỏ bằng chỉ len đen cột ngược lên cao, khuôn mặt chẹt lét và cặp mắt ti hí như mẹ nó. Nhìn búp bê, không ai có thể nhầm lẫn: cặp mẹ con búp bê nầy rõ ràng là người Hoa giai cấp bình dân. Dưới gót giầy của búp bê mẹ là chữ ký của tác giả, Michael Lee, April 9, 1991. Tôi mua con búp bê nầy ở Hồng Kông cùng ngày.
Tôi thường hay đọc tạp chí của hãng máy bay vắt trong cái túi sau lưng chiếc ghế trước mặt. Trên chuyến bay Cathay Pacific đường bay quốc tế từ Los Angeles qua Hồng Kông trong chuyến đi công việc sở tháng Tư năm đó, tôi đọc một bài viết về “Nhà Sáng Tạo Búp Bê Hồng Kông Đương Thời”. Hàng chữ bắt mắt tôi “Mỗi cuối tuần ông bỏ thì giờ vô trại tị nạn Việt Nam giúp đỡ, làm việc từ thiện.”
Tôi đọc hết bài viết. Michael Lee, bài báo viết, đã sáng tạo những con búp bê làm tay nét Trung Hoa với vẻ đặc thù không thể nhầm lẩn với các tác giả khác. Một điều đáng buồn là tác phẩm của ông sau khi tung ra thị trường thì bị “ăn cắp”, copy không bản quyền. Bài viết có để lại địa chỉ của Michael Lee. Tôi bèn lấy một mẫu giấy nhỏ ghi xuống địa chỉ. Tôi hình dung Michael Lee, một anh chàng nghệ sĩ với dáng dấp phong lưu như tài tử Jackie Chan. Dân Hồng Kông ít ai mang tên thánh trừ giới trẻ trong lãnh vực nghệ thuật hay âm nhạc, điện ảnh.
Vào cuối thập niên 80s, đầu thập niên 90s, trong trại tị nạn Việt Nam ở Hồng Kông thường xảy ra các va chạm và tranh chấp với dân địa phương. Những cuộc hổn loạn khi lên cao điểm trong trại được báo Hồng Kông đăng tải, nhưng không giúp cải thiện được gì. Tôi có tới Hồng Kông nhiều lần trong thời gian nầy nhưng không hề có ý định tìm tới trại tị nạn. Tại sao tôi cũng không rõ. Có lẽ vì tôi đâu có ai quen còn kẹt trong đó, hay phải đi tìm thân nhân hộ ai. Còn làm chuyện từ thiện thì phải có mục tiêu chớ đâu có thể đi khơi khơi như đi tour du lịch. Khi những bận rộn hàng ngày chiếm trọn thời giờ, thì những chuyện vay trả “nợ đời” không còn là chuyện ưu tiên trong đời sống.
Hồi ở trại tị nạn tôi có nhận thực phẫm tiếp tế của Hồng Thập Tự. Miếng khi đói thì không làm sao kể cho xiết chuyện ơn nghĩa, tiền bạc. Nhưng mang ơn Liên Hiệp Quốc, nên tôi không biết ai mà trả. Thôi thì mỗi năm cứ viết cái chi phiếu gởi đi United Way là coi như ơn đền. Tiện hơn nữa, hàng năm khi công ty gởi giấy quyên tiền, tôi chỉ việc gạch dấu “deduction from pay check”, ký tên bỏ vô HR in-box là xong. Khỏi tốn thêm tiền con tem.
Nhưng khi đọc xong bài viết về Michael Lee hôm đó, tôi cảm thấy hơi bâng khuâng. Michael Lee không phải “phe ta” mà có hảo tâm như vậy. Tôi muốn đi tìm anh và nhờ anh chuyển hộ một món tiền nhỏ giúp đỡ “phe ta”.
Sau khi check in và ngủ được một giấc khoẻ người ở khách sạn, tôi bắt đầu cuộc phiêu lưu ký đi tìm Michael Lee theo mẫu giấy viết địa chỉ ghi từ tờ tạp chí.
Ở Hồng Kông khi đi ra khỏi khu du lịch Tsam Tsa Tsui ở Cửu long thì không mấy dân địa phưong biết tiếng Anh. Số vốn tiếng Quảng Đông của tôi góp nhặt chỉ đủ để trả giá ở chợ trời “Hong Kong Jade Market” thôi chứ không đi tới đâu. Đón taxi tôi nhờ nhân viên trong khách sạn bảo ông tài xế đưa tôi đi tới địa chỉ của Michael Lee. Chiếc taxi đưa tôi từ Cửu Long chui qua con đường hầm nối liền qua đảo Hông Kông.
Phố xá càng đi càng mất lần bảng quảng cáo bằng chữ Anh. Những bảng treo đầy màu sắc với chi chít dòng chữ viết dọc xuống, giăng mắc ngang con lộ hẹp khiến tôi cảm thấy như mình đang ở ngay trong lòng thành phố Chợ Lớn. Đường phố hẹp, các cửa hiệu bán đủ loại từ quần áo cho tới thực phẩm. Có những cửa hiệu thịt quay, treo những con heo quay đỏ ối. Rác đầy mặt lộ.
Chiếc taxi ngừng ở một khoảng đường hẹp. Ông tài xế nói vài tiếng, tôi tự động biết đã tới nơi . Kéo chiếc xách tay, bập bẹ vài tiếng Quảng Đông tôi móc tiền trả tiền cước. Dưới bảng địa chỉ sau một khung cửa hẹp là chiếc cầu thang tối om. Tôi dò lại địa chỉ lần nữa số nhà đúng không sai. Hơi ngại, nhưng tôi cứ lên xem sao.
Leo hết bậc thang là một cánh cửa cũ kỷ với chút ánh sáng hắt lên từ dưới chân cầu thang. Tôi đưa tay gõ. Một thiếu phụ trung niên đẩy cửa ra hỏi tôi bằng tiếng địa phương “Nị quảnh mách dẹ"” - không trách bà được vì tôi không có một dấu gì để bà trông mà biết là dân ngoại quốc. Tôi biết bà hỏi “Cô tới kiếm chi"” Nhưng vốn liếng tiếng Quảng của tôi chỉ tới đó thôi, tôi đáp “Michael Lee.” “Zịp lì.” - Vô đây. Bà đẩy cánh cửa rộng và khoát tay mời tôi vào.
Căn phòng tối. Từ ngoài sáng bước vào, một lúc sau mắt tôi mới thấy rõ căn phòng chật chội chất ngổn ngang đồ đạc và vật liệu. Sau chiếc bàn máy may Singer cũ kỹ, một ông cụ hơn 70 tuổi ngước lên nhìn qua cặp kiếng lão. Người thiếu phụ nói với ông có lẽ về tôi. Tôi khấn thầm xin cho Michael Lee có ở nhà bởi vì tôi không có cách nào để nhắn nhủ với hai nhân vật ở nhà anh cả.
Ông cụ dở cặp mặt kiếng xuống nhìn tôi, rồi sổ cho một tràng tiếng Quảng Đông. Tôi nhìn ông nói chậm rãi từng tiếng một, “I am looking for Michael Lee.” Với hy vọng tên Michael gợi được chút gì. Ông cụ tiếp tục nhìn tôi chằm chặp rồi chậm rải nói, “I am Michael Lee.” Tôi ngạc nhiên vô cùng với giọng Anh đúng âm của một cụ già ở một con ngỏ hẹp trong Hồng Kông, giữa một nơi “địa phương” không phải khu thương mại quốc tế.
Michael Lee, ông cụ nầy sao"
Ông cụ tiếp tục nói với tôi bằng tiếng Anh giọng Ăng Lê trôi chảy. “Where do you come from"” Tôi đáp rằng tôi tới từ Mỹ, nhân đọc được bài viết về ông trên Cathay Pacific nên tới tìm. Ông cụ vui vẻ rời chiếc máy may và mời tôi ngồi bên chiếc bàn gỗ nhỏ. Nói vài câu qua người thiếu phụ, ông bảo pha trà mời khách.
Rồi cuộc đàm thoại của tôi và ông bắt đầu hết sức cởi mở, đương nhiên bằng tiếng Anh. Tôi bảo ông rằng tôi rất ngạc nhiên về tiếng Anh nói rất trôi chảy của ông. Ông bèn kể tôi nghe về nguồn gốc tiếng Anh của ông.
Là một trẻ mồ côi, ông được một commissionaire người Anh trong giáo hội Cơ Đốc bên Thượng Hải mang về nuôi trong nhà dòng. Ông được nuôi lớn lên và cho theo học trường dòng ở Thượng Hải dạy theo hệ thống Anh và đương nhiên chữ Anh là chữ ông biết trước khi ông biết chữ Hoa. Năm ông lên đại học thì cách mạng Cộng Sản tiến chiếm Thượng Hải. Hàng trăm ngàn người chạy tị nạn qua Đài Loan và Hồng Kông. Theo làn sóng tị nạn ông qua Hồng Kông. Khi đó ông không biết tiếng Quảng Đông, vì dân Hoa Lục chỉ dùng tiếng Quan Thoại nên số vốn tiếng Anh của ông thật là vô dụng. Cuộc đời của dân tị nạn lúc đó rất cơ cực. Biết bao người đột nhiên trắng tay, không nhà, không cửa, sống trôi dạt và làm lại cuộc đời trên mảnh đất Hồng Kông nhỏ bé.
Qua lời tâm sự, ông cho biết ông không có lập gia đình. Người thiếu phụ trong nhà chỉ là người phụ việc sản xuất những con búp bê và nấu ăn cho ông. Ông cho biết những con búp bê đặc thù của ông chỉ bán cho những người sưu tầm biết ông. Ở Hồng Kông chuyện bản quyền chỉ là trò cười. Búp bê sáng tác của ông sau khi tung ra là có người cắp kiểu ngay. Thưa kiện không ăn thua gì. Có lần điện thoại của ông reo và trên đầu giây là cô thơ ký của hãng Mattel (hãng làm Barbie dolls). Cô hỏi ông có thể gặp ông tổng giám đốc Mattel được không. Nghe qua ông quá đỗi vui mừng . Thôi phen nầy trúng tủ rồi. Chủ hãng Mattel tới gặp, ông hy vọng sẻ đẩy được những con búp bê sáng tạo của ông lên thị trường quốc tế, và ông sắp giàu to tới nơi. Ông chủ hảng Mattel tới gặp ông cũng ở căn nhà nhỏ hẹp nầy. Ông ta rất thích và trầm trồ khen ngợi những con búp bê đặc thù, nhưng sau đó chỉ mua vài con để sưu tập thôi mà không đề nghị mua bán lớn hay hợp đồng gì cả.
Tôi hỏi ông về trại tị nạn Việt Nam. Ông buồn buồn nói rằng ông đã trải qua cuộc đời tị nạn khi xưa. Thật là thống khổ khi phải rời bỏ một nơi chốn mình lớn lên và sống trôi dạt một nơi mình không thể gọi quê hương. Bây giờ với ông, ông vẫn chỉ là một người tị nạn sống ở Hồng Kông. Ông thương hại cho biết bao gia đình người tị nạn Việt Nam bị “giam lỏng” trong trại, không được đi ra ngoài. Mỗi tuần ông mang vải, gòn và những vật liệu làm búp bê lên trại. Ông vẽ kiểu và dạy cho những cô gái, mấy bà trong trại may những con búp bê đơn giản, rồi mang những con búp bê đó ra chợ bán lại cho mối hàng của ông. Tiền bán búp bê ông đổi mua vật liệu và thực phẩm, hay đồ dùng cần thiết mang về cho những gia đình tị nạn.
Chúc Chân
Lời ngoại chuyện - Mong là cộng đồng người Việt hải ngoại sẽ thành lập được một Heritage Center, có thể ở “thủ phủ”Little Saigon, CA, để trưng bày và diễn giải cuộc di cư trong thế kỷ 20 của những người dân Việt tị nạn trên thế giới cho các thế hệ sau.