Tác giả Diệu Ái nguyên là một giáo chức tại Việt Nam, hiện cư trú tại Nam California. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà là truyện về một nữ Phật tử cao niên tìm thấy niềm vui tự tại từ sự an trú trong tâm Phật.
*
Ở Mỹ của cải vật chất đầy đủ, cuộc sống tiện nghi, con người không phải lo vật lộn với miếng ăn áo mặc. Nếu ta có một công việc tháng tháng đủ tiền trả mọi khoản chi tiêu cho cá nhân và gia đình là ta có thể yên chí, chẳng phải lo nghĩ gì, mọi sự sẽ dư sức qua cầu.
Bà Hải là một trong những người già Việt Nam được định cư ở Mỹ. Hai vợ chồng có một căn phòng khiêm nhượng trong gia đình con trai lớn. Tuy mọi thứ đều đầy đủ nhưng bà Hải vẫn không thoải mái với những suy tư của mình, nhất là phải sống sao cho hòa hợp với gia đình, họ hàng cũng như ngoài xã hội. Với gia đình, bà Hải rất thông cảm với sự lật bật của mọi người thân trong việc chạy đua với thì giờ một ngày. Người lớn đi làm, trẻ con đi học, làm sao bắt kịp với đà tiến của đời sống. Có lẽ vì thế mà chuyện đi lại thăm viếng, hỏi han, chăm sóc mất sự thường xuyên, nếu có việc cần hay nhớ nhau thì qua đường dây điện thoại. Lại còn phải lo về vấn đề xã giao với láng giềng, nhất là những người Mỹ đồng lứa tuổi với bà. Khi nói chuyện với họ, phải biết đứng ngồi, nói năng sao cho có khoảng cách, không suồng sã thân mật, vỗ vai, khoa tay múa chân, giọng nói cao thấp, nghiêm nghị hay vui đùa còn tùy thuộc ở người đối thoại. Khi nói chuyện cũng đừng nhìn một cách sỗ sàng, soi mói, nhất là đối với những người lớn tuổi, mắt kém làm họ khó chịu. Nhìn thẳng vào mặt người nói chuyện với mình là tốt nhất.
Ở Mỹ quyền riêng tư được tôn trọng tuyệt đối. Phòng của người này, người khác không được tự tiện vào dọn dẹp. Hồi còn ở Việt Nam, khỏang năm 1980, mỗi lần nhớ con nhớ cháu, bà Hải thường đạp xe đạp từ quận 10 đến cư xá Thanh Đa, đôi khi các con bà bận đi làm, các cháu bận học, nhà vắng. Bà tự ý làm chủ, quét dọn phòng cho các cháu, sắp đặt thứ tự lại đồ đạc bày bừa, giặt giũ cho cả nhà. Rồi có lúc cao hứng, bà còn ra chợ mua đồ ăn về nấu một bữa cơm chiều ngon lành cho con cháu. Có khi, bà ngủ lại cho tới sáng sớm hôm sau mới đạp xe về lại quận 10.
Ở đây thì khác, muốn đến thăm nhà ai phải điện thoại báo trước. Có việc đến nhà người thân dự đám cưới, đám hỏi hay lễ giỗ Tết phải lấy phòng trọ hay ở Hotel. Hạn hẹp lắm mới có chỗ thân tình còn giữ nề nếp Á Đông mới mời khách ngủ lại với câu châm ngôn "ăn hết nhiều, ở hết mấy", nhưng vẫn thấy bất tiện.
Tuy rời đất nước đã mười mấy năm, con cái của bà vẫn giữ nề nếp, rất hiếu thảo. Nhưng người lớn phải làm việc, trẻ con phải học hành, cứ như guồng máy quay mòng mòng, không lúc nào yên. Bà muốn giúp, việc ai người đó biết, cũng không xen vào mà giúp được. Tâm sự riêng tư kín trong lòng không ai biết. Bà đã già, ngoài phúc lộc xã hội và phụ giúp của con cháu để cuộc sống ông bà vừa đủ thong dong, còn họ hàng, con cháu ở quê nhà, bà không biết xử thế sao cho phải… Tuy có ông bên cạnh, bà vẫn cảm thấy cô đơn, lạc lõng, vì xã hội Mỹ rộng lớn quá mà hai nền văn minh khác nhau, bà khó lòng hòa đồng được. Với tâm trạng rối ren như vậy, dần dần bà mất tự tin, cảm thấy cuộc sống nơi đây là một chịu đựng vô bờ.
Đầu năm 2003, theo lời khuyên của một người bạn, bà Hải đi đến một ngôi chùa cách nhà ông bà khoảng 40 phút lái xe. Không muốn phiền các con và hai cháu trai lớn đưa đón, bà phải đổi hai lần xe bus để đến chùa. Cảnh tĩnh lặng của chùa cũng đem lại cho bà sự êm ả, nhưng đạo Phật thâm sâu rộng lớn quá, không ngày một ngày hai mà thông hiểu hay thực hành được. Bà ước mong có được một nhân duyên giúp bà khai ngộ.
Bẵng đi một thời gian ngắn, bà trở lại chùa thì thấy cảnh vẫn còn mà sư trụ trì đã đi đâu. Ngôi chùa đang được sửa chữa lại và bà thấy có bóng mấy sư cô đang dọn dẹp. Bà Hải ngập ngừng không biết nên vào hay tháo lui thì một sư cô đã ngừng tay, nhìn ra tươi cười:
"Mời bà vào lễ Phật."
Bà Hải ngượng ngập. Bà chỉ đem theo chút ít tiền trong ví, chắc cũng chỉ mua đủ thẻ hương. Sư cô nói tiếp:
"Bà cứ tự nhiên vào trong điện lễ Phật."
Bà Hải bước vào. Bên trong không còn bày trí nhiều, gọn ghẽ mà vẫn rất trang nghiêm, không khí yên tịnh, thiền vị. Sư cô vào theo để thỉnh chuông, cử chỉ thanh nhã và đạo hạnh. Tự nhiên bà Hải thấy cảm mến như gặp lại một người thân nào ở kiếp trước đã là một gia đình, thầy trò, bạn hữu. Bà Hải lấy số tiền nhỏ nhoi cúng dường với tâm thành và sư cô dịu dàng cười:
"A Di Đà Phật, nếu đúc chuông mà thiếu số tiền của đạo hữu thì chuông sẽ không kêu."
Câu nói của sư cô đưa bà Hải trở về với kỷ niệm hồi thơ ấu với câu chuyện của bà nội kể lúc bà lên mười tuổi về một ngôi chùa nọ. Vào năm chùa khởi công quyên góp để đúc chuông, có một phật tử nghèo, chỉ đóng góp được một đồng tiền kẽm, ai cũng nhìn bằng con mắt miệt thị. Sau đó, chuông được đúc, đúc đi đúc lại mà cái chuông vẫn bị thủng một lỗ nhỏ. Sau có người bới đống đồng sắt vụn thấy có một đồng tiền kẽm sứt mẻ, đem cho vào nấu chuông mới hoàn hảo. Câu chuyện nữa cũng đầy ý nghĩa là một bà già nghèo kia, một hôm đem tới mừng Phật trong hội hoa đăng một cây đèn nhỏ xíu, cũ kỹ đặt bên cạnh những đèn nến sang trọng rực rỡ. Thắp một lúc, tất cả các cây đèn đều cạn, tắt, chỉ có cây đèn của bà già nghèo khó cứ cháy hoài. Không hề phân biệt giàu nghèo, cúng dường nhiều ít, tâm hướng Phật của người nghèo khó cũng ngang bằng vua A Dật Đa cúng dường cả khu đất rộng lớn, xây dựng đồ sộ nguy nga để làm nơi Phật giảng đạo.
Bà Hải lâu lâu đi lễ một lần. Khi gặp ni sư trưởng, khi gặp các sư tỷ muội trong chùa. Không khí trong chùa tĩnh lặng, trang nghiêm, các sư rất ít nói, nhưng từ ánh mắt, nụ cười, lời nói đều có ánh sáng trí tuệ và từ bi làm mỗi lần gặp gỡ, trò chuyện, tâm hồn bà Hải thấy thư thái, an ổn như tìm được nơi trú ẩn. Vợ chồng bà Hải xin housing đã lâu, nay được gọi, mọi thủ tục đã xong, bà Hải lo dọn tới chỗ mới sẽ xa hoặc ngược đường tới chùa. Khi lễ xong, ra về, sư cô hỏi:
"Bác thường chứ""
Bà Hải đang suy tư nên buột miệng:
"Đệ tử không biết nay mai đổi nhà mới có được gần chùa không""
Sư cô mỉm cười chia sẻ:
"Không sao đâu. Nhà mới sẽ gần mà."
Đâu phải lời nói suông miệng. Quả nhiên hôm sau điện thoại reo. Ông bà Hải được gọi lên làm giấy thuê căn nhà ở một khu phố mà tính ra, chỉ cách chùa có bốn lốc bus.
Bà Hải càng ngày như được khai ngộ qua lời giảng pháp của sư cô, tâm an lành hướng về nguồn đạo. Bà thường thỉnh kinh sách về đọc, và một hôm, đến thiền viện, bà thỉnh cuốn thơ "Cùng vầng trăng soi". Khi ra về, trời đã chập tối. Trong lúc chờ xe bus, bà giở cuốn thơ ra xem, tình cờ mở ra trang 286, đầu đề bài thơ "Tôi hết để tang tôi". Bà Hải giật nẩy mình và hai chữ để tang cứ ám ảnh bà, bà tính về tới nhà sẽ đọc tiếp. Sáng hôm sau, có điện thoại người em họ báo tin bà cô chồng mất. Bà Hải sững sờ, có phải đầu đề bài thơ đã ứng báo cho bà Hải tin buồn trong gia đình" Tuy bà là cháu dâu, nhưng bà rất quý trọng bà cô chồng vì sự cư xử và tình lý của bà đối với họ hàng, con cháu. Là con gái nhà quan, bà cô chồng của bà Hải tính tình đôn hậu, khiêm tốn, giữ lề lối phong cách nhà nho, thêm tính siêng năng, cần mẫn và cầu tiến. Một tay bà cô tần tảo chăm sóc gia đình, con cái để ông chú rể yên tâm vừa học hành vừa làm việc. Kết quả, ông chú đã đỗ đạt, thăng quan tiến chức, thành công về ngành ngoại giao, có chức vụ trong chính quyền Cộng Hòa cũ. Bà cô theo chồng nhậm chức ở nước ngoài, cũng phải thay đổi nếp sống sang trọng cho phù hợp với nghi lễ của nước mình và nước người. Nhưng mỗi lần về nước trong dịp nghỉ hè, cả cô chú lại trở về nếp sống đơn giản, khiêm cung. Đối với họ hàng, con cháu, ông bà một mực quí hóa và thương mến.
Mùa Xuân năm Giáp Thân
Diệu Ái