Hôm nay,  

Ánh Mắt Của Cha

22/06/201800:00:00(Xem: 12175)
Tác giả: Tâm Chánh

Bài số 5419-19-31260-vb6062218

 
Tác giả Tâm Chánh là người con gái của Trung Tá Từ Tôn Khán, Tỉnh Đoàn Trưởng Tỉnh Đoàn Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn, Huế, thời 1968. Ông bị Việt Cộng bắt và sát hại trong Tết Mậu Thân tại Huế. Hiện nay Tâm Chánh là Vice President of the Real Estate Entitlement Development Incorporation tại Southern California.

 
****
 

Nếu bây giờ ông Trời ban cho tôi một ước nguyện thì điều tôi sẽ cầu xin không một giây ngần ngại: xin cho Cha của tôi được sống lại dù chỉ là một ngày để Mẹ tôi có được niềm vui trước khi bà từ giã cõi đời, để cho các con tôi được gặp Ông Ngoại. Một mơ ước thật hão huyền và sẽ không bao giờ đạt được nhưng tôi vẫn khấn nguyện, vẫn ước mơ...

Người Cha thân yêu của tôi bị bọn Việt Cộng khát máu đoạt mệnh trong biến cố tết Mậu Thân năm 1968 khi tuổi đời của Ông chưa đến ba mươi bảy. Mẹ tôi trở thành góa bụa ở tuổi ba mươi hai, cái tuổi thanh xuân đẹp nhất của một người phụ nữ, bơ vơ với sáu đứa con thơ dại và đứa con út mới tượng hình ở trong lòng.

Nửa thế kỷ qua, lòng tôi chưa bao giờ ngưng tiếc nhớ, ray rứt, và đau khổ.

Thuở đó, gia đình của tôi cư ngụ tại đường Bạch Đằng, một con đường nằm ngay tại trung tâm của tỉnh Thừa Thiên, thành phố Huế. Con đường này song song với đường Huỳnh Thúc Kháng nổi tiếng với những tiệm bánh mứt, kẹo mè xửng giòn, dẻo đủ loại. Hai con đường cách nhau bởi giòng sông Gia Hội, nơi có những chiếc đò đưa khách sang sông trong suốt bốn mùa.

Trong khu đất rộng của Ông Bà Cố tôi để lại gồm có ba căn nhà: căn Nhà Cẩn có lối kiến trúc xưa tọa lạc ngay chính giữa của khu vườn, là nơi thờ phụng tổ tiên với các điện thờ và các cột trụ thiếp vàng chạm trổ rẩt tinh vi, với bàn ghế giường tủ và các tấm mành đều được cẩn xà cừ. Nhà Tây được xây cất theo lối kiến trúc của Pháp, nằm về phía tay trái của Nhà Cẩn. Ở giữa hai căn nhà có bụi chè tàu rất lớn được trồng từ mấy đời trước, cành lá xum xuê cao quá đầu người. Đằng sau Nhà Cẩn, qua một khu vườn đầy hoa Tường Vi là căn Nhà Mới được kiến trúc theo lối tân thời.

Chúng tôi đã sống thời thơ ấu hết sức êm đềm trong căn nhà của Tổ Tiên. Ông Bà Nội của chúng tôi lúc đó đã không còn ở Huế, nhưng chúng tôi được sự thương yêu đùm bọc của Ông Bà Ngoại. Cha tôi đi hành quân thường xuyên, mỗi lần về ông đều đàn hát cho Me tôi nghe và chở chúng tôi lên thăm Ông Bà Ngoại. Mấy Me con líu ríu, quấn quýt bên Cha trong hạnh phúc ngập tràn.

Một lần về sau chuyến hành quân, Cha đem về một con chó. Ông gặp nó bị thương, nằm bên vệ đường. Ông đã tự tay săn sóc vết thương cho đến khi con chó bình phục. Kể từ đó gia đình chúng tôi có thêm một thành viên mới, chú chó Berger cao lớn. Con chó hết sức quyến luyến Cha tôi. Nó vô cùng mừng rỡ bất cứ khi nào ông về đến nhà, nó luôn luôn quanh quẩn ở bên ông khiến Mẹ tôi đôi lúc cũng bực mình khi bị nó làm chộn rộn.

Những tưởng cuộc sống sẽ được mãi ấm yên như thế… Nhưng tất cả đã thay đổi vào đầu năm 1968.

Đêm Giao Thừa Tết Mậu Thân, chúng tôi tụ họp ở nhà Ông Bà Ngoại để cúng tết và dùng bữa với gia đình của các Cậu Dì đến từ các thành phố khác. Khoảng gần mười giờ đêm bỗng có những tiếng nổ. Ban đầu mọi người đều ngỡ là ai đó đốt pháo Tết sớm, nhưng chỉ sau vài phút, Cha tôi biết ngay là tiếng nổ của súng. Gương mặt và đôi mắt Ông đầy lo âu. Chỉ trong khoảnh khắc, Ông nhận được điện tín về lệnh chuẩn bi cấm trại và tuyệt đối đề phòng cảnh giác. Cha tôi xin phép Ông Bà Ngoại để đưa Mẹ con chúng tôi về vì phải đi trực.  Mọi người đều năn nỉ Cha tôi ở lại vì có lẽ họ đã linh cảm được điều không hay nhưng Cha tôi cương quyết từ chối. Ông nói là cấp chỉ huy thì không thể vi phạm kỷ luật quân đội.

Khi gia đình tôi vừa về đến nhà thì con chó sủa vang và cứ cắn ống quần của Cha tôi. Tuy vậy, Cha vẫn không chú ý đến những cử chỉ khác thường của nó vì ông đang tìm cách liên lạc với cấp trên để nói chuyện. Con chó vẫn sủa ăng ẳng và kéo ống quần của Cha. Đang ở trong tình huống căng thẳng, lo âu, Cha đã nạt lớn và hất mạnh con chó sang một bên. Nó sợ hãi bỏ chạy ra ngoài sân, và hôm sau những người giúp việc đã cố công tìm kiếm con chó nhưng không ai thấy nó.

Đêm Mồng Một Tết, Việt Cộng (VC) tấn công. Vài ngày sau, chúng chiếm thành phố Huế.

Cha bảo Me và tất cả chị em chúng tôi chạy qua trú dưới căn hầm của một gia đình láng giềng cách nhà của chúng tôi năm căn. Cha ở lại nhà tiếp tục liên lạc điện thoại, làm việc với cấp trên.

Sau nhiều ngày chui rúc trong căn hầm, chúng tôi không nghe tin tức gì của Cha nên Mẹ rất lo lắng. Rạng sáng ngày 10 tháng 2 năm 1968, Me tôi đã nhờ O Lan, cô giúp việc trong gia đình, bò về nhà để thăm dò tin tức. Nhân lúc Me đang cho em bé út chưa được một tuổi bú sữa, tôi lén đi theo O Lan.

Khi O bò ra khỏi miệng hầm được một quãng ngắn thì O mới biết là có tôi đi theo. Dù lo lắng Me tôi sẽ rầy la, nhưng O cũng mừng vì có tôi bên cạnh cho đỡ sợ.

Lúc đó khoảng gần 5 giờ sáng, trời mùa đông xứ Huế vẫn còn tối đen và lạnh căm căm. Vất vả lắm chúng tôi mới len qua được những hàng rào ở phía sau các khu vườn và lẻn về đến nhà.

Chúng tôi giật mình vì thấy người lạ đứng đầy sân. O Lan vội kéo tôi nằm sát xuống đất sau bụi chè tàu ở giữa Nhà Cẩn và Nhà Tây.

Từ đó, tôi trợn mắt cố nhìn xuyên qua bóng tối. Tôi rụng rời khi thấy Cha tôi và các chú cận vệ đang bị trói ké tay trước hàng hiên của căn nhà Tây. Chúng đang tra hỏi các chú Mãng, Chú Phấn, và chú Truật với những câu được lập đi lập lại "Các anh muốn chúng tôi khoan hồng thì hãy khai ra những gì mà Thiếu Tá Khán giấu diếm, bằng không đừng trách chúng tôi".

Khi nghe vậy tôi và O Lan lâm râm cầu nguyện để các chú đừng khai mặc dù tôi không thật sự hiểu bọn VC muốn các chú khai những gì…

Họ bắt đầu đánh các chú. Tiếng đấm, đá bình bịch như xoáy vào đầu tôi. Rồi tôi nghe giọng Cha tôi “Các anh muốn gì thì cứ hỏi tôi, binh lính của tôi không có tội tình chi mà các anh hành hạ họ.”  Tôi nghe chúng cười gằn rồi nói "Thiếu Tá đừng lo, sẽ tới lượt chúng tôi hỏi thăm sức khỏe của Thiếu Tá…"

Mấy phút im lặng trôi qua, tôi không nghe được khi bọn chúng nói nhỏ những gì với nhau. Lúc ấy, O Lan và tôi vừa lạnh vừa sợ, hai hàm răng của chúng tôi đánh lập cập vào nhau. Chúng tôi càng co rúm người lại, tưởng như chúng sắp phát giác ra sự hiện diện của chúng tôi.

Khi trời tờ mờ sáng thì tôi và O Lan phải đổi tư thế để ngồi xổm lên để lá chè che khuất. Từ chỗ núp, tôi đã thấy được rõ ràng cảnh tượng trước hiên nhà.

Bọn VC mặc đủ sắc phục: đứa thì mặc nguyên bộ đồ nhà binh, đứa thì mặc quần tây, áo sơ mi, nhưng trên cánh tay áo của chúng đều có đeo băng đỏ. Tên nào cũng cầm một cây súng có họng dài và quanh lưng đeo băng đạn, có tên còn cầm lựu đạn trên tay. Trong đám người mặt đầy sát khí này có một người đàn bà mặc bồ đồ đen, tay cầm súng lục.

Chúng vây lại quanh Cha, la hét tra khảo về những việc làm của Cha.

Cha trả lời “Tôi có lý tưởng của tôi, các anh có lý tưởng của các anh, tôi không khai báo, không chỉ điểm đồng đội của tôi.”

Chúng gầm gừ, chửi rủa rồi quay báng súng đánh túi bụi vào đầu, vào mặt Cha.

Một tên thét lớn "Vận mạng của cả gia đình mày đang nằm trong tay của chúng tao. Nếu mày chịu khai báo thì chúng tao sẽ tha và không sai người đi lùng bắt vợ con mày.”

Cha thở hổn hển vì đau nhưng chỉ nói “Các anh cứ làm nếu thấy cần, tôi thà hy sinh vợ con chứ không thể hèn mà đầu hàng các anh”.

Mụ đàn bà la the thé “Đánh nữa! Đánh nữa đi!” Chúng vừa đánh vừa kéo một sợi xích sắt lớn khóa chân Cha tôi và các chú cận vệ lại với nhau. Rồi những báng súng, những cái đá, cái đạp lại liên tiếp giáng xuống đầu, xuống ngực, xuống lưng Cha.

Nước mắt tôi rơi ràn rụa, ngực tôi nhói lên với từng tiếng hừ hự vang lên từ phía Cha tôi…

**

Cha! Đã năm mươi năm qua, con vẫn nhớ như in những giây phút ấy. Những giây phút khủng khiếp mà lời lẽ không bao giờ đủ để diễn tả.

Những cây súng giơ lên, quật xuống. Chúng vây quanh Cha, liên tiếp đánh.

Từ sau bụi chè tàu, con đã đứng lên. Con gạt phăng tay O Lan đang hết sức níu lấy con. Con nhào tới, xụp xuống lạy xin bọn chúng tha cho Cha và các chú.


Cha đã cố ngẩng lên và nhìn thấy con. Cha sững sờ trong khoảnh khắc. Rồi Cha trầm giọng bảo con phải can đảm, đừng van xin vô ích.

Con bỗng nghe đau nhói trên đầu. Một bàn tay thô bạo đã xoắn tóc con, dúi đầu con xuống đất, trước mặt Cha. Chúng gào lên rằng sẽ bắn con nát óc để xem Cha có còn cương quyết từ chối khai báo nữa hay không.

Con sợ hãi đến tột cùng, toàn thân con run bần bật. Con tưởng Cha sẽ đầu hàng nhưng con đã nghe tiếng Cha bảo chúng rằng “Các anh cứ bắn con tôi đi, nếu các anh muốn, nhưng tôi vẫn không thể làm theo lời yêu cầu của các anh”.

Con khóc nghẹn từng cơn như sắp tắt thở, vừa van xin chúng, vừa năn nỉ Cha.

Và, lúc đó, con đã bắt gặp ánh mắt Cha nhìn con. Ánh mắt đầy cương nghị, nhưng cũng chan chứa thương xót, khổ tâm. Ánh mắt của Cha đã cho con thêm can đảm, thêm nghị lực để chịu đựng. Con đã bớt hoảng loạn, đã có thể lắng nghe lời Cha trăn trối. Cha dặn con phải thay Cha để lo cho Me, cho em. Khoảnh khắc đó chỉ dài vài phút, nhưng mãnh lực của ánh mắt, lời nói trước khi Cha con mình vĩnh viễn xa nhau đã theo con cho đến hôm nay.

Bỗng nhiên có một tên VC khác chạy vào, bọn chúng tụ lại bàn nhau điều gì đó với vẻ lo lắng. Cha nhìn thẳng vào mắt con lần nữa, mấp máy môi nói thật nhỏ “Con chạy đi!” Rồi bất ngờ Cha la to “Anh em tấn công!” Bọn VC vội dàn hàng, quay mặt về phía cổng chính. Ngay giây phút đó, con đã phóng qua bụi chè tàu, chạy thục mạng ra khỏi vườn sau.

**

Sau 26 ngày, quân đội Quốc Gia đã tái chiếm Thành phố Huế. Con đã được cho theo cùng với Ông Ngoại, Me, và chú Bốn tài xế để đi tìm Cha ngay lập tức.

Mọi người khởi hành từ 4 giờ sáng ngày 27 tháng Giêng năm Mậu Thân. Trời còn tối đen mà tiếng khóc đã rền rĩ khắp các nẻo đường. Từ cầu Đông Ba đi về phía cầu Gia Hội, nhìn đâu cũng thấy xác người nằm la liệt.

Khi con đến trường Gia Hội, thì những toán đi tìm đang đào những hầm chôn tập thể lên. Có những nạn nhân chưa chết hẳn nhưng khi thân thể của họ được vực lên thì đa số họ hộc máu và tắt thở trong vòng vài phút.

Mùi tử khí đã khiến Ông Ngoại, Me, và con bị xây xẩm mặt mày nhiều lần. Đến khoảng 2 giờ chiều, sau khi đã tìm kiếm ở tất cả các mồ chôn tập thể ở sân trường Gia Hội, Me đã đuối sức vì lúc đó Me đang mang thai mà không biết. Ông Ngoại đề nghị trở về nhà và sẽ tiếp tục chuyện tìm kiếm vào ngày hôm sau. Ông cũng an ủi Me con là biết đâu Cha đang bị chúng bắt làm tù binh. Chú Bốn cũng đồng ý, thế là mọi người thất thểu quay về.

Mọi người vừa qua khỏi cầu Gia Hội chưa đầy một thước bỗng nhiên con chó của Cha bất thần xuất hiện. Mọi người chưa hết kinh ngạc thì con chó tru lên đầy ai oán. Nó cắn lấy ống quần của Me, kéo bà đi theo nó. Ông Ngoại tái mặt, biết ngay là điềm chẳng lành. Ông vội kéo con đi theo con chó.

Đến cửa Thành Nội, ngay dưới chân bức tường đầy rêu phong là một nấm đất cao được đắp sơ sài. Con chó dừng lại, ngửa cổ sủa liên tục. Dân ở những nhà gần đó kéo ra, họ nói với Ông Ngoại là chính họ đã chôn cất Cha. Họ nói là thấy đám VC dẫn đầu bởi Nguyễn Thị Đoan Trinh, và Hoàng Phủ Ngọc Phan, đã áp giải Cha tới đó. Họ đã chứng kiến cảnh Cha bị đánh đập vô cùng dã man nhưng Cha vẫn nhất định không hé một lời. Rạng sáng ngày 11 tháng 2, 1968, họ nghe tiếng súng nổ, sau đó họ tìm thấy Cha nằm gục ở chân tường. Tuy biết Cha, nhưng họ sợ bị trả thù nên đã phải đợi đến đêm hôm đó mới vội vã chôn Cha.

Khi Chú Bốn đào huyệt lên, Me té xỉu khi vừa nhìn thấy Cha. Cha nằm đó trong cái huyệt nông chưa đầy một thước. Sóng mũi Cha vẫn cao, đôi mắt Cha khép kín nhưng khuôn mặt với nét cương nghị vẫn còn nguyên vẹn. Con đã run rẩy cúi xuống thật gần để rờ mặt Cha. Con đã thấy những dòng máu khô đen từ những vết đánh ở hai bên má và màng tang của Cha.

Cha ơi! Con đã đứng nhìn Cậu dùng khăn tẩm rượu trắng để lau máu trên thân thể cha. Chiếc áo len đen do chính tay Me đan bị lủng nhiều chỗ ở ngực nên con biết là cha đã bị bắn nhiều phát vào tim. Qua chỗ rách Con còn thấy thẻ căn cước của Cha lòi ra khỏi túi áo sơ mi trắng. Qua làn nước mắt ràn rụa, con thấy các binh lính của Cha đóng áo quan cho Cha từ những tấm ván bởi vì cả thành phố Huế chỉ còn một chiếc hòm nhỏ, không vừa với Cha.

Sau đó, những chú lính đã cùng chú Bốn đưa Cha về lại nhà của mình.

Cha nằm giữa phòng khách của Nhà Tây. Ở ngay nơi đó, chỉ một tháng trước chúng con và Me còn quây quần cười nói bên Cha, nay chỉ có chúng con đội tang trắng xóa, ngơ ngác khóc than trước di ảnh Cha. Con nức nở gọi Cha ơi nói chuyện với con đi, đừng im lặng nhìn con như vậy nữa. Trong ánh nến lung linh, con đã thấy như Cha đang đưa mắt nhìn nhìn theo từng đứa chúng con.

Ông Ngoại bảo không nên di chuyển xa trong lúc tranh tối tranh sáng, VC nằm vùng đang còn trà trộn khắp nơi. Các chú đã đào huyệt cho Cha ngay trong vườn, phía bên trái của căn nhà Tây. Các vị sư chỉ dám đến để tụng kinh một tiếng đồng hồ rồi hạ huyệt.

Giờ phút cuối, chúng con đi vòng quanh áo quan trước khi các chú di chuyển Cha ra huyệt, con thấy như ai đâm vào người con hằng trăm mũi dao nhọn. Con tự trách mình đã bỏ chạy để Cha ở lại với bầy quỷ dữ, con tự giận mình không nghĩ ra kế để cứu Cha cùng các chú cận vệ.

Rồi chúng con lại phải ném những miếng đất xuống huyêt. Từng mảnh đất đen rơi lộp bộp lên cỗ quan tài mà Cha nằm trong đó. Nỗi đớn đau trong lòng con không thể có ngôn ngữ nào diễn đạt được, Cha ơi.

**

Cha yêu thương, chuyện xảy ra đã năm mươi năm về trước nhưng hình ảnh của Cha cùng ánh mắt Cha nhìn con trong những giây phút cuối cùng vẫn mãi mãi trong tâm trí con.

Định mệnh đã khiến con trốn Me đi về nhà để được gặp Cha, để được nghe Cha dặn dò lần cuối. Định mệnh đã cho con thấy được ánh mắt cương nghị, đầy dũng khí của Cha, dù Cha đã bị bọn người khát máu hành hạ. Ánh mắt chan chứa xót thương của Cha đã nâng con dậy trong thời gian con bị khủng hoảng sau khi Cha ra đi, và không biết bao nhiêu lần sau đó khi con ngã quỵ trong những tháng năm dài côi cút.

Định mệnh đã cho con cơ hội nhìn tận mặt để nhận diện những người đã giết Cha, mặc dù mấy chục năm qua con chưa có can đảm tìm hiểu về những cái tên mà người mà dân trong Thành Nội đã kể cho Me và con. Mãi đến đầu năm nay, 2018, Cô C. đã gửi cho con xem cuộc phỏng vấn tên Hoàng Phủ Ngọc Phan về Tết Mậu Thân. Con đã run rẩy suýt đánh rơi cái Ipad khi thấy mặt hắn. Năm mươi năm trước, vào ngày 10 tháng 2 năm 1968, chính tên này đã dọa giết cả gia đình mình, chính hắn và đồng bọn đã vung báng súng đập lên Cha và các chú.

Cha yêu thương, đến giờ phút này con vẫn khâm phục tài trí của Cha. Cha biết chúng không bao giờ tha cho Cha, dù Cha có khai báo. Vì thế, Cha thà chịu cho cha con mình cùng chết, nhưng Cha đã quyết bảo vệ cho gia đình những đồng đội khác.

Từ đó đến nay, con luôn nuối tiếc vì không còn nghe được tiếng Cha răn dạy. Đó là nỗi mất mát to lớn của tụi con. Em út không hề nghe được giọng nói và không hề thấy được gương mặt của Cha.  Con cứ tưởng tượng đến nỗi khổ đau của Me, và con đã khóc trong suốt mấy chục năm qua, nhất là mỗi khi chồng con vô tình choàng vai ôm con để an ủi đã khiến hình ảnh Cha ôm Me ngày nào trở về rõ rệt trong trí con. Con lại bật khóc như đứa trẻ lên năm.

Cha ơi! Bây giờ con đã nên người, đã thành công, đã giữ trọn lời con hứa với Cha năm nào, con đã làm tròn trọng trách Cha đã giao phó cho con. Tất cả các con, các cháu của Cha đã thành nhân. Cha không có con trai nhưng đứa con gái mít ướt này đã cho Cha một thằng cháu ngoại và đứa cháu ngoại này cũng cho Cha một đứa cháu cố trai.

Vì ai mà Cha không được một lần thăm chúng! Vì ai mà Cha lỗi hẹn với Me của con!

Viết cho Cha mà nước mắt con vẫn trào và sẽ không bao giờ ngưng khi con nhớ đến người Cha vắn số của con. Con hãnh diện được làm con của Cha, một người Cha đầy lòng nhân hậu, đầy trí dũng cảm đã giữ đúng cương vị, tư cách, và uy tín của một sinh viên sĩ quan của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam.

Nhớ Cha hoài.

Con gái mít ướt của Cha.

Tâm Chánh

Ý kiến bạn đọc
26/06/201821:05:34
Khách
Xin lổi tác giả Tậm Chánh
Trong phần góp ý trước tôi ghi sai là Tâm Phan.
Và Tâm Chánh là 1 trong nnhững người con của T/Tá Khán chứ không phải con gái áp út
25/06/201821:23:34
Khách
Sau thảm sát Mậu Thân, người dân ở Huế kinh hoàng, hoảng hốt. Những gì do người ta kể lại rất có thể là "tam sao thất bổn" (chuyện chuyền miệng tới người thứ ba thì không còn đúng với bản chánh nữa)

Điểm chính ở đây là Trung Tá K. đã bị bè lũ VC bắt, hành hạ, và sát hại.

Tôi tin rằng những chi tiết khác như xẻo tai v.v... do ông NLT ghi lại từ các người kể là "tam sao thất bổn". Do đó, gia đình Tr/T K bây giờ đã lên tiếng.

Tất cả chúng ta đều biết VC cực kỳ tàn ác, đều muốn ghi lại tội ác của VC. Những chi tiết cũ nếu có sai lầm thì rất có thể là ngoài ý muốn.
Mong mọi người luôn nhớ rằng chúng ta là những người cùng chống VC, sẵn sàng lắng nghe, thấu hiểu, và sửa sai khi cần thiết.
25/06/201801:31:42
Khách
Tôi chưa hề đọc bài viết nào về sự ra đi của THIẾU TÁ TỪ TÔN KHÁNG . tuy nhiên nếu là người thật trong gia đình khi thấy ai đó viết sai về CHA mình tôi những tưởng cũng sẽ có một tiếng nói nào đó . Có đâu mà im lặng trước một cái chết anh hùng của cha mình . Ngoài thanh mình còn là một góp phần trong lịch sử nữa . Rất kính trọng niềm đâu đớn của gia đình tác giả đã vượt mọi tức tủi nói lên sự thật làm rạng danh CHA . Kính
24/06/201823:58:46
Khách
Sự kiện là thiếu tá Từ Tôn Kháng là đảng viên đảng Đại Việt mà dân biểu Nguyễn Lý Tưởng cũng thuộc đảng Đại Việt - hơn 60 tuổi đảng- và lại có trách nhiệm điều tra tội ác Cộng sản , điều này khiến tôi tin rằng báo cáo của ông ta về cái chết của thiếu tá Từ Tôn Kháng là đáng tin cậy.
24/06/201821:12:07
Khách
Nếu Trung Tá Từ Tôn Kháng đã rơi vào tay nhóm cuồng sát hạng nặng như anh nghĩ thì bọn chúng sẽ không tha cho vợ con của ông ta đâu. Không có ai ngu tới mức tra tấn nạn nhân trước mặt vợ con cho tới chết rồi tha bổng cho vợ con đâu.
24/06/201820:57:09
Khách
Cám ơn phần góp ý của độc giả Lê Minh Đức, tuy nhiên, những nghi vấn nêu ra vẫn không thể làm tôi đổi ý. Ai cũng biết rằng Cộng sản đối xử rất tàn ác đối với các người tù " cải tạo", tuy nhiên, theo những bài viết thuật lại , thì lẻ tẻ cũng có những gã trại trưởng hoặc quản giáo không tỏ ra khắc nghiệt. Và ngay cả có chuyện nữ công an đã " phải lòng" người tù " cải tạo". Suy ra vậy thì có thể đoán rằng thiếu tá Từ Tôn Kháng có thể đã rơi vào tay nhóm cuồng sát hạng nặng.
24/06/201820:22:59
Khách
Trong cuộc chiến Việt nam, thiếu tá Từ Tôn Kháng không phải là người duy nhất bị bọn Cộng sản hành hình theo lối Trung cổ mọi rợ. Theo trang mạng của không tquân Việt Nam Cộng Hòa thì thiếu tá Nguyễn Du bị lọt vào tay chúng - khi phi cơ bị bắn rơi ở vùng Đông Hà - cũng đã bị bọn Cộng sản cắt tai, cắt mũi, xẻ thịt cho đến chết.
24/06/201818:33:44
Khách
Tôi sống ở Texas hơn 25 năm. Rời Texas nhưng vẫn còn đông họ hàng nội ngoại ở mọi thành phố trong tiểu bang Texas. Năm nào tôi cũng về lại Houston thăm họ hàng và ở lại căn nhà cũ tôi ở năm xưa với mợ tôi. Năm 2008, ông Tưởng có tới Texas kể lại chuyện Tết Mậu Thân như sau:
“Khi tiếng súng bùng nổ ra tại Huế và Quảng Trị, tôi đã có mặt trong vùng nầy. Ngày 3 Tết (01 tháng 2/1968) tôi đã có mặt tại nhà của Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm tại Đà Nẵng, tôi đã gặp ông Võ Lương (Giám Đốc Cảnh Sát 5 tỉnh vùng I tại Đà Nẵng), tôi đã dùng điện thoại liên lạc với Ty Cảnh Sát Thừa Thiên…Từ Đà Nẵng, tôi vào Nha Trang, ở lại một đêm, sáng hôm sau, ngày 5 Tết (3 tháng 2/1968), tôi có mặt tại Hạ Nghị Viện Sài Gòn để họp tại Quốc Hội. Ngày 9 tháng 2/1968, từ Sài Gòn , tôi trở ra Huế , lúc bấy giờ quân đội VNCH và Mỹ đã chiếm lại phía Hữu Ngạn sông Hương (Quận 3) nhưng vùng Phủ Cam, Vỹ Dạ, Gia Hội và Thành Nội còn trong vùng Việt Cộng kiểm soát…”
Ông Tưởng chỉ ở Huế có hai ngày mùng 1 và mùng 2. Sau đó ông vào Đà Nẵng rồi biến vào Sàigòn. Ông nói vào Sàigòn để họp Quốc Hội ngày mùng 5 Tết cho oai chứ có nào dám nói trốn chạy có cờ vì bố vợ ông, em vợ 16 tuổi và cháu ruột 13 tuổi bị chôn chết. Quốc Hội VN không họp ngày mùng 5 Tết vì “tháng Giêng là tháng ăn chơi”.
Ông nói tiếp:
“Tôi đã gặp ông Nguyễn Văn Tăng (Quận Trưởng Hương Thuỷ) gặp các Sĩ Quan tại Tiểu Khu Thừa Thiên, đã ở lại 1 đêm tại Ty Cảnh Sát Thừa Thiên và 1 đêm tại Tiểu Đoàn 12 Pháo Binh (gần phi trường Phù Bài), tôi đã có mặt trong cuộc họp tại phi trường Phù Bài (ngày 9/2/1968) cùng với phái đoàn Trung Ương Sài Gòn (do Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ, Đại Tướng Cao Văn Viên…hướng dẫn ra Huế) để nghe các vị chỉ huy quân sự tại Đà Nẵng và Huế (Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư Lệnh Quân Đoàn I; Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Sư đoàn 1 và Trung Tá Phan Văn Khoa, Tỉnh trưởng Thừa Thiên)…báo cáo tình hình…”
Ông Tưởng chỉ là một dân biểu quèn thôi làm chi mà được vào họp chung với phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ, Đại Tướng Cao Văn Viên để nghe Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm và Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng “báo cáo tình hình”. Khi hành pháp họp nội bộ về quân sự, Lập pháp không được vào.
Tôi không muốn moi móc những chuyện xưa vì bài nói chuyện của ông Tưởng được giáo sư Nguyễn Ngọc Bích dịch ra cho người ngoại quốc nghe. Tôi có nói cho giáo sư hay, giới học thức Mỹ không ngu đâu. Chỉ cần nghe thoáng qua là họ biết đúng hay sai. Có điều vì lịch sự họ im lặng.
Giáo sư cũng lịch sự im lặng không trả lời tôi.
24/06/201813:45:28
Khách
Nguồn trích dẫn của tôi ít nhất là từ dân biểu Nguyễn Lý Tưởng và dân biểu Nguyễn Đức Cung. Dân biểu Nguyễn Lý Tưởng là giáo sư , đảng viên trên 60 tuổi đảng với đảng Đại Việt , và cũng là dân biểu đại diện tỉnh Thừa Thiên. Khi biến cố Mậu Thân xảy ra, dân biểu Nguyễn Lý Tưởng đang có mặt ở Huế. Và sau khi Huế được tái chiếm , với tư cách dân biểu Thừa Thiên, ông đã đi diều tra về tội ác Cộng sản và đã tiếp xúc với rất nhiều nạn nhân .

Ghi chú thêm là thiếu tá Từ Tôn Kháng cũng là đảng viên đảng Đại Việt.

Vậy là đã rõ ràng rằng những lời thuật lại của hai vị dân biểu Nguyễn Lý Tưởng và Nguyễn Đức Cung về cái chết vô cùng đau đớn của thiếu tá Từ Tôn Kháng là đáng tin cậy.

Còn tác giả Tâm Chánh, bây giờ bỗng dưng năm nay lên trang mạng Việt Báo tự xưng là con của thiếu tá Từ Tôn Kháng và viết vể cái chết của thân phụ hoàn toàn khác với những gì hai dân biểu Nguyễn Lý Tưởng và Nguyễn Đức Cung đã phát biểu, thì thật là không thể thuyết phục được độc giả như tôi tin đươc.

Nữa là giữa cái chết vì súng đạn và cái chết vì bị cắt thẻo từng bộ phận của cơ thể cho đến chết, thì cái chết nào đau đớn hơn hả ông/bà Vanto? Giữa bọn giết người bằng súng đạn và bọn giết người bằng cách cắt từng bộ phận của nạn nhân, rồi khoái trá nhìn nạn nhân quằn quoại, giẫy đành đạch vì đau đớn khủng khiếp , thì bọn sát nhân nào dã man hơn hả ông/bà Vanto? Ông/Bà Văn To viết "...nên tôi khuyến khích cô viết để tố cáo sự thất dã man của 2 anh em nhà Hoàng Phủ ", thế thì tại sao con gái của thiếu tá Từ Tôn Kháng lại thuật lại cái chết của bố mình tuồng như ông bị xử tử bằng súng đạn nhỉ ?!

VVNM là diễn đàn tự do. Tác giả Tâm Chánh tự nguyện gửi bài đăng , thế cho nên phải chịu trách nhiệm về những gì mình viết, và phải chịu những lời phê bình của công luận, thưa ông/bà Kim Ho.
24/06/201813:20:08
Khách
Tôi cũng đã được đọc các bài viết của Nguyễn Lý Tưởng và Nguyễn Đức Cung. Ông Tưởng viết rất rõ ràng và chân thật trong phần mở đầu là: “Tôi đã nghe các nhân chứng kể lại những gì họ đã trải qua…”. Ông Tưởng về lại Huế sau khi quân đội chiếm lại cổ thành nên không thấy chỉ nghe kể thôi. Ông Cung thì sao chép lại những gì ông Tưởng viết và be ra rất nhiều như là chính mình ngồi bên cạnh coi từ đầu tới cuối.
Bài viết của ông Tưởng có rất nhiều nghi vấn.
Nghi vấn thứ nhất: Ông Tưởng có kể Việt cộng giết khoảng 5 tới 6 ngàn người, có cả con nít, đàn bà, sinh viên học sinh, linh mục, tu sĩ, giáo sư, bác sĩ.. nghĩa là tất cả mọi thành phần chúng cho là có tội hoặc dính tới người có tội với nhân dân. Thí dụ như chuyện ông kể về gia đình Trung Tá Nguyễn Tuấn và vợ là Từ Thị Như Tùng, bị Việt cộng giết cả nhà: vợ chồng và các con nhỏ bị bắn B-40 chết hết. Vậy tại sao “Việt cộng trói tay ông Kháng, cột ông vào cọc giữa sân,..tra tấn ông trước mặt vợ con, cho đến chết”, rồi tha cho vợ con ông Kháng? Ông tổ của chúng là Mao Trạch Đông nổi tiếng với câu: thà giết lầm còn hơn bỏ sót. VC không ngu tới mức tra tấn nạn nhân trước mặt vợ con cho tới chết rồi tha bổng cho vợ con đâu.
Nghi vấn thứ hai: VC biết sẽ bị quân đội VNCH phản công rất nhanh nên chúng thủ tiêu người rất lẹ như bài viết của hai ông Tưởng và Cung: “Chúng vừa đọc xong thì tên du kích bắn một loạt đạn AK...nạn nhân rơi xuống hố..”, “Chúng nó dùng cán cuốc đánh vào đầu các nạn nhân cho chết..” hay “Dã man nhất là tại Khe Đá Mài, Việt cộng đã dùng súng trung liên, đại liên, lựu đạn và mìn giết tập thể các nạn nhân, vất xác xuống dưới khe,..” Tất cả mọi nạn nhân, kể cả đàn bà con nít, đều bị thủ tiêu rất nhanh, không có giờ chôn chỉ trừ vụ giết Trung Tá Kháng là tốn rất nhiều giờ tìm kiếm ông, kêu gọi ông ra trình diện, tra tấn ông trước mặt vợ con rồi tha cho gia đình ông.
Nghi vấn thứ ba: Ông Tưởng viết: “Việt cộng vào nhà số 176 đường Bạch Đằng, Huế, bắt vợ con ông Từ Tôn Kháng ra đứng giữa sân và tuyên bố nếu ông không ra trình diện thì tất cả vợ con ông sẽ bị giết”. Ông Cung be ra thêm là Trung Tá Kháng núp trên mái nhà. Chúng vào nhà không thấy Trung Tá Kháng chỉ thấy vợ con là biết ngay ông không có nhà hay trốn trong nhà. Tìm không thấy trong nhà là biết núp trên mái nhà hay nhà hàng xóm. Núp trên mái nhà thì chúng chỉ cần bắn một tràn AK lên trần là biết ngay. Núp nhà hàng xóm hay không có trong nhà thì chúng “tuyên bố nếu không ra trình diện” thì làm sao biết Trung Tá Kháng nghe được hay không? Chúng tuyên bố trên đài phát thanh? À quên, trước khi tấn công thành phố Huế, chúng đã cho người vào bắt loa phường khắp xóm để “tuyên bố”.
Tất cả những gì ông Tưởng viết, xin được nhắc lại câu mở đầu của chính ông: “Tôi đã nghe các nhân chứng kể lại…”
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 3,691,288
Mừng năm mới 2019, mời gặp lại một tác giả thân quen. Tác giả đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2014. Cô sinh năm 1962, tốt nghiệp Đại Học Mỹ Thuật năm 1988 khoa Đồ Họa tại Việt Nam, từng làm công việc thiết kế sáng tạo trong ngành quảng cáo. Cô đến Mỹ tháng 4 năm 2000, hiện là cư dân Waxahachie, Texas, trong một thành phố ít người Việt cư trú. Sau đây là bài viết mới của tác giả.
Tác giả đã dự Viết Về Nước Mỹ từ hơn 10 năm trước và mới nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2018. Bài đầu tiên của ông là "Kinh 5 Dị Nhân" kể về vùng quê, nơi có hơn 1000 người -phân nửa dân làng- vượt biên mà tới hơn 400 người tử vong- Hiện ông đang là cư dân Orlando, Florida, vùng đất rất quen với bão lụt. Loạt bài gần đây của ông là chuyện khởi nghiệp trên đất Mỹ. Bài mới, bắt đầu phần “dựng nghiệp”.
Tác giả định cư tại Pháp nhưng thường lui tới với nước Mỹ, tham gia Viết Về Nước Mỹ từ tháng Ba 2010. Họp mặt giải thưởng năm 2011, bà đã bay từ Paris sang California để nhận giải Vinh Danh Tác Giả -thường được gọi đùa là giải Á Hậu. Năm Mậu Tuất sắp hết, mời đọc bài viết với nhiều nụ cười, tiễn chân chó cưng.
Tác giả tham dự Viết Về Nước Mỹ từ năm 2004. Võ Phú là tên thật. Sinh năm 1978; sinh quán Nha Trang-Việt Nam; định cư, tại Virginia-Mỹ, 1994. Tốt nghiệp cử nhân Hóa, Virginia Commonwealth Uni-versity. Hiện đang làm việc và học tại Medical College of Virginia. Sau 12 năm bặt tin, tác giả lại tiếp tục Viết về nước Mỹ từ 2016, với sức viết mạnh mẽ và thứ tự hơn. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Với bài viết đầu tiên từ tháng Sáu 2017, tác giả đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX. Thư kèm bài, cô cho biết đang làm tax accountant ở Los Angeles, thường xuyên theo dõi và xúc động khi đọc những câu chuyện đời của người Việt trên xứ Mỹ. Bước sang năm thứ 20 của giải thưởng, tác giả đang tiếp tục cho thấy sức viết ngày càng mạnh mẽ hơn. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Tác giả đã nhận giải bán kết Viết Về Nước Mỹ 2002 với bài "Tiểu Hợp Chủng Quốc" kể về nơi cô làm việc, khi khủng bố tấn công nước Mỹ ngày 9 tháng 11 năm 2001. Viết về nước Mỹ sang năm thứ 15, cô nhận thêm giải danh dự với tự truyện về bệnh lãng tai bẩm sinh. Bài viết mới là tự truyện về mùa Giáng Sinh 1975.
Tác giả tên thật Tô Văn Cấp, sinh năm 1941, khoá 19 Võ Bị, 50 năm lính với Chiến Thương Bội Tinh. Mậu Thân 1968, ông là một Đại Đội Trưởng Thuỷ Quân Lục Chiến tại trận địa Phú Lâm, Chợ Lớn. Tháng Tư 1975, ở với đồng đội ven đô cho tới giờ phút cuối, sau đó là 10 năm tù công sản. Định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO1, dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, với nhiều bài viết giá trị, ông đã nhận giải á khôi năm 2014.
Tác giả từng nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2015. Ông là cựu sĩ quan VNCH, giảng viên trường Sinh ngữ quân đội, cựu tù cải tạo. Ông cũng là tác giả sách "Hành Trình về Phương Đông" do "Xây Dựng" xuất bản năm 2010. Mới nhất, là cuốn "Within & Beyond" do tác giả viết bằng Anh ngữ và tự xuất bản. Sau đây, bài viết mới.
Tác giả là một cây bút nữ, cư dân San Jose, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sang năm thứ 18 của giải thưởng, Lê Nguyễn Hằng nhận thêm giải Vinh Danh Tác Giả, với bài viết về “Ba Thế Hệ Tuổi Dậu” và bài “Từ Độ Mang Ơn”. Bài mới, tác giả viết cho mùa Giáng Sinh.
Tác giả lần đầu dự VVNM từ tháng 11 và đây là bài viết thứ hai của bà. Sinh năm 1955, qua Mỹ năm 1985, tên thật là Nguyễn thị Minh Thuý, người của sông Hương núi Ngự. Hiên nay còn làm việc và đang cư ngụ tại thành phố Hayward thuộc miền Bắc Cali. Xin lưu ý: Bút hiệu Minh Thúy có thể lầm với tác giả đã dự VVNM từ 2005: Minh Thùy (dấu huyền). Mong tác giả tiếp tục viết.