Hôm nay,  

Nói Về Tuổi Trẻ Sau 42 Năm

13/03/201800:00:00(Xem: 11169)
Tác giả: Capvanto

Bài số 5270-19-31115-vb5031518
 

Capvanto là một bút hiệu khác của Philato, có lẽ do lối viết cách điệu từ Tô Văn Cấp, tên thật tác giả. Ông sinh năm 194, từng là một đại đội trưởng thuộc TĐ2/TQLC, đơn vị có biệt danh Trâu Điên. Với nhiều bài viết giá trị, ông đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây thêm một bài viết mới.

VVNM01

“Together Then Together Now”.

VVNM02

TQLCVN Lạt Ma và Tướng Lương Xuân Việt).

 
***
           

Trong bài viết về “Trâu Điên Và Cố Vấn Mỹ” đã được phổ biến, tôi có nhắc đến trận đánh ngày 14-17/9/68 ở mật khu Bời Lời, Tây Ninh, trong trận này có tới 2 cố vấn Mỹ bị tử thương và 2 bị thương. Lúc đó Đại Úy Sheehan, là cố vấn trưởng Tiểu Đoàn 2/TQLC, sau này ông ta về Mỹ và lên tới cấp tướng 4 sao. Một bạn cùng đơn vị cũ đọc xong bài viết bèn gửi email cho tôi, nửa đùa nửa thật như thế này:

- Hồi đó, 9/1968, ông Sheehan là đại úy cố vấn, sau này ông ta lên tới tướng 4 sao và là Tư Lệnh..., còn bạn lúc đó là đại úy đại đội trưởng, sau vào tù CS rồi ra đi HO thì nay bạn làm được cái “thống chế” gì chưa, hay vẫn là tư lệnh “NATO”?

Tôi hiểu ý bạn tôi viết chữ “NATO” trong ngoặc kép là muốn ám chỉ “No action, talk only”, bạn ấy muốn chọc quê tôi có làm được chuyện gì ra hồn đâu mà chỉ nói thôi. Tôi thấy đúng quá và vui vì cách gán ghép này nên email hồi âm:

-Bị đi tù thì làm sao là tướng, nhưng nhìn thế hệ thứ hai làm tướng là sướng rồi.

Trong chỗ bạn bè đơn vị cũ, chiến trường xưa, chúng tôi thường có những câu đùa vui để nhớ về dĩ vãng, nhớ về “thời oanh liệt ấy nay còn đâu”! Tuy rằng đường binh nghiệp nửa đường gẫy gánh, tuy không được làm tướng, nhưng an ủi nhau rằng trước sau gì cũng là “Anh Sáu”.

Ngày xưa trong quân đội, chỗ thân tình anh em, chúng tôi thường gọi những vị đại tá mà chúng tôi kính trọng là “Anh Sáu”, nhưng nay, sống đời tỵ nạn, người lính trẻ nhất cũng lục tuần, chúng tôi đang sắp hàng tấn công lên đồi... nên “anh sáu” còn có hàm ý là sáu tấm. Trước khi làm anh sáu..., được mặc áo quan thì hãy ôn lại với nhau, sau 42 năm tỵ nạn, chúng ta đã làm được những gì hay chỉ nói thôi?

Mau thật, thế mà đã 42 năm rồi đấy, kể từ ngày “gẫy súng”, đã quá nửa đời người rồi mà sao tôi thấy mọi chuyện cứ như mới xẩy ra ngày hôm qua.

“Hôm qua”, ngồi trong Trung Tâm Hành Quân Thủy Quân Lục Chiến tại căn cứ Non Nước Đà Nẵng thì tôi nhận được tin Đại Úy Tô Thanh Chiêu tử trận và mất xác tại bãi biển Thuận An!

“Hôm qua”, lúc 6 giờ 30 sáng, các Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc, Đỗ Hữu Tùng, Thiếu Tá Trần Văn Hợp và tôi cùng đứng bên bờ biển Non Nước, chia nhau điếu thuốc, ngụm cafe đựng trong cái ca nhôm nhà binh, cafe’ không đường cộng với khói thuốc khiến miệng chúng tôi đang đắng càng đắng thêm.

“Hôm qua”, sau khi nghe “Đại Tướng Tổng Tư Lệnh Quân Đội” ra lệnh bắt chúng tôi buông súng, thì tại Trung Tâm Hành Quân trong căn cứ Sóng Thần TQLC, từ anh cả Tango đến chú em út Tám Nhót đều ngửa mặt lên trời nuốt nước mắt than thầm:

-Mất nước, nhà tan rồi!

“Mất nước là mất tất cả”, mà thời gian trôi qua quá nhanh, “hôm qua và hôm nay”, cách nhau 42 năm mà như chỉ là “24 giờ phép, 4 giờ đi lại thêm 4 giờ về” nên chúng tôi, những cựu quân nhân có làm được gì đâu! Sau những năm tháng tù đày và “kéo cày” trên mảnh đất tạm dung đầy sỏi đá về ngôn ngữ. “Chí tuy còn mong tiến bước, nhưng sức không kham nổi đoạn đường” nên còn chút hơi để thở, để nói, “talk only” là quý lắm rồi. Chúng tôi nói với chính mình, nói với các bạn đồng minh và nói với con cháu, gọi là thế hệ thứ hai, thứ ba.

 
Nói Với Chính Mình:

Ai đã từng là quân nhân, đã đội trên đầu câu: “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm”, đã đưa cao tay thề nơi vũ đình trường thì thời gian, không gian nào, dù “giấy rách cũng phải giữ lấy lề”, nên đại đa số các cựu quân nhân đã, đang và sẽ cùng với cộng đồng người Việt tỵ nạn xây dựng một xã hội mới. “Chúng ta đi mang theo quê hương” nên từ văn hóa, chính trị, kinh tế đang lớn nhanh trên đất tạm dung này.

Những cộng đồng gốc Á Châu khác, họ đã đến Mỹ hẳng trăm năm trước, đến từ lúc làm công nhân đường rầy xe lửa cho người bản xứ đi tìm vàng nên họ có China Town, Korean Town, Japan Town ... Chúng ta vừa mới chân ướt, chân ráo đến đây trong hoàn cảnh chạy giặc mà Quốc Kỳ VNCH đã tung bay khắp nơi, đã có Little Saigon, tuy chưa nhiều, nhưng rồi sẽ có. Mua một căn nhà cũng cần thời gian 30 năm mới trả xong nợ, vậy mà chỉ mới có 42 năm mà chúng ta đã xây dựng được một cộng đồng người Mỹ gốc VN như thế là đáng hãnh diện rồi. Mỗi người tỵ nạn xin xét mình để góp sức vào sự thành công này.

 

Nói Với “Đồng Minh”:

 Thành phần phản chiến đi với tuyên truyền của VC đã khiến một số người dân, giới chức Hoa Kỳ, hiểu lầm về cuộc chiến đấu chính nghĩa của chúng ta và hậu quả là những gì thì ai cũng biết, điều nguy hiểm hơn nữa là sách báo nói láo của VC tiếp tục chui vào “quần” chúng Mỹ.

Thầy Dan, giáo sư dạy Sử về chiến tranh Việt Nam ở Shoreline Communit College, WA, ông cứ theo sách trong thư viện mà dạy, mà ca tụng HCM và CS, bởi vì chúng ta chưa nói cho họ biết sự thật. Khi có học viên là một cựu quân nhân gốc Việt mang những vết thương trên người ra chứng minh rằng sách báo VC nói láo thì ông giáo sư Dan mới tin.

 Vì vậy, mọi công dân VNCH, mọi nơi, mọi lúc, nên nói và phải nói cho các bạn “đồng minh” biết sự thật. Có nhiều người đã, đang làm điều đó, dù công khai hay âm thầm, từ trường học đến sở làm và kết quả rất đáng mừng, những người hiểu lầm đã dần dần tỉnh ngộ.

Đã có biết bao ngưởi Việt tỵ nạn nói với “đồng minh” cho họ hiểu sự thật về cuộc chiến VN, vì sao chúng ta có mặt tại đây. Tôi xin nêu ra một vài trường hợp cụ thể:

Người đồng minh Hoa Hỳ từng chiến đấu bên cạnh quân đội VNCH thì sau 42 năm họ càng gắn bó thêm với đơn vị xưa. Một tấm hình thay cho ngàn lời nói, tấm hình các cựu quân nhân Hoa Kỳ sát cánh cùng các cựu BĐQ/VN dương cao Quốc Kỳ Việt Mỹ trong buổi họp mặt hằng năm mà họ gọi là:

“Together Then Together Now”.

Với TQLC/VN thì các cựu cố vấn Mỹ, trong đó có các Đại Úy Sheehan và Hoar, sau này cả hai ông đều là đại tướng 4 sao, nhưng họ và TQLC/VN chúng ta vẫn “nói” với nhau qua emails, qua điện thoại nên càng ngày họ càng hiểu hơn, càng nể phục TQLC, nói riêng, và quân đội VNCH nói chung.

Thomas Campbell, cựu cố vấn TĐ2/TQLC sau khi về Mỹ, ông dạy môn lãnh đạo và chỉ huy tại Đại Học Austin Texas và viết sách. Trong tựa đề một cuốn sách, Đại Tá hồi hưu Thomas Campbell đã nói về các TQLCVN như Lê Hằng Minh, Nguyễn Thế Lương, Ngô Văn Định, Nguyễn Xuân Phúc là “My best teachers”, ông Thomas viết như sau:

In November 1965 when I was assigned as an advisor to the Vietnamese Marines. I thought that I would make them better Marines, but in the final analysis they made me a better Marine. I learned things from them that are not taught in American military schools. My best teachers were Major Le Hang Minh, Major Nguyen The Luong, Major Dinh Van Ngo, Captain Nguyen Xuan Phuc...

This is the story and the lessons.

Co van My

Tom Campbell

Austin, Texas.

                                              
Các cựu quân nhân hai quốc gia hiểu nhau, đến với nhau đã là quý, nhưng qua lời nói và hành động của mỗi người dân tỵ nạn khiến người dòng chính cảm phục mới là điều có ý nghĩa.

Người anh em đồng môn của tôi, BĐQ Vương Mộng Long, ghi danh học lớp History 274 “U.S. and Vietnam”  với mục đích tìm hiểu xem cuộc chiến tranh vừa qua đã được các sử gia Mỹ ghi chép lại như thế nào? Từ đó, hy vọng biết được phần nào, nguyên nhân vì sao, giữa đường Mỹ đã bỏ rơi Việt Nam? Vì sao chúng ta đã thua trận?

Nhưng chẳng may Long gặp phải ông giáo sư dạy sử phản chiến, mỗi khi nói tới phong trào Việt Minh, ông ta ca tụng HCM như một lãnh tụ, ông ta chỉ nói những phần có lợi cho VC. Đã có đôi lần BĐQ Vương Mộng Long dơ tay nêu ý kiến, thì ông chỉ cười, chỉ tay vào quyển Sử: “Book said!”. Nhưng với quyết tâm nói cho “đồng minh” biết sự thật, Long đã trình bày cho ông nghe những gì Long sống và chiến đấu, cuối cùng ông phải phục người cựu quân nhân VNCH.

Xin trích đoạn bài viết: “Ông Giáo Sư Dạy Sử” của Vương Mộng Long:              

. . .
 

“Thưa giáo sư, xin giáo sư vui lòng cho phép tôi được trình bày với ông đôi điều liên quan tới sự giảng dạy của ông trong thời gian vừa qua. Tôi có thể làm phiền ông vài phút được không?

Thầy Dan niềm nở:

- Dĩ nhiên là được, Ông có điều gì cần cứ nói.

- Thưa giáo sư, tôi là một người Việt Nam tỵ nạn. Tôi là một cựu sĩ quan của Quân Đội VNCH. Tôi còn nhớ trong bài giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi, nhắc lại rằng, phi vụ đầu tiên của pháo đài bay B52 trên Cao Nguyên Việt Nam là vụ oanh tạc Thung Lũng Ia-Drang...

Thầy chỉ biết tới những trận đụng độ đẫm máu trong thung lũng Ia-Drang qua báo chí, truyền thanh, và truyền hình. Còn tôi là người đã lặn lội mười năm ở đó, đã nhiều lần bị thương đổ máu ở đó, đã rơi lệ vuốt mắt cho nhiều đồng đội nằm xuống ở đó. Trong số những người nằm xuống ấy, không thiếu những thanh niên Mỹ đồng trang lứa với thầy. Nơi đó chúng tôi chiến đấu quên mình từng ngày, vì nền độc lập của đất nước tôi, và vì quyền lợi của nước Mỹ. Thầy chưa từng khoác áo nhà binh, chưa một lần có mặt trên chiến trường. Suốt đời thầy không hiểu nổi thế nào là niềm kiêu hãnh của một người lính chiến, thế nào là lòng khát khao chiến thắng, thế nào là tình huynh đệ chi binh...

Suốt đời thầy không hiểu được vì sao hơn 20 thương binh của BĐQ/VNCH phải mở đường máu rút lui mà vẫn cưu mang theo ba người lính Mỹ, trong đó có hai người bị trọng thương, và vì sao một đại tá Hoa Kỳ đã đưa thân che chở cho một thương binh Việt Nam để rồi ông bị mảnh đạn vỡ đầu. Mạng lưới truyền thông thiên Cộng khổng lồ của Hoa-Kỳ đã tiếp tay với bộ máy tuyên truyền của Cộng Sản Quốc Tế cố tình xuyên tạc, bóp méo tất cả những gì có liên quan tới nguyên nhân, diễn tiến, và hậu quả của cuộc Chiến Tranh Việt Nam...

Chúng tôi thất trận không phải vì chúng tôi kém khả năng, thiếu tinh thần chiến đấu, mà vì người Mỹ đã phản bội, nửa đường rút quân, cắt viện trợ. Từ khi người Mỹ rút lui, chúng tôi bị bó chân bó tay, bụng đói mà vẫn phải chiến đấu. Trong khi đó, Miền Bắc lại tràn ngập lương thực, quân dụng, quân nhu, và vũ khí viện trợ từ khối Cộng...

Chúng tôi đã chiến đấu cho chính nghĩa như thế đấy, chúng tôi đã hy sinh như thế đấy, và chúng tôi đã bị bỏ rơi như thế đấy. Tôi cũng không hiểu vì sao người Mỹ phản chiến, trong đó có thầy, lại xuống đường tranh đấu, cổ vũ cho kẻ thù của chúng tôi, và ngược đãi chiến binh của chính nước Hoa Kỳ? Thầy ơi! Sao thầy lại nỡ nhẫn tâm như thế! Thầy đã tiếp tay với kẻ thù, đâm sau lưng thân nhân và bạn bè đồng minh của thầy...

Ông thầy dạy Sử như bừng tỉnh cơn mơ:

-Tôi tin lời ông, vì chẳng có lý do gì để ông nói dối. Có điều là, từ đó tới nay, hơn hai mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình Việt Nam đầu tiên tới định cư ở Hoa Kỳ, chưa ai nói cho tôi nghe những điều này. Có thể, người ta muốn quên đi quá khứ, hoặc là người ta không có can đảm nói ra. Tôi đã hiểu, và tôi phải cám ơn ông. Ông quả là một chiến binh thực thụ”.

Nghe được những lời nói chân tình từ miệng ông giáo sư, lòng tôi (VML) cảm thấy ấm áp lạ lùng. Trước mắt tôi, ông đã thành một người bạn đồng minh, ông đưa tay ra cho tôi bắt và nói: “Thưa người chiến binh, Ông vừa lập một chiến công.” (hết trích)


Nói Với Tuổi Trẻ.

Nói với chính mình, nói với “đồng minh” chỉ là để ôn chuyện cũ, “giấy rách phải giữ lấy lề”. Còn nói với thế hệ thứ hai, thứ ba mới là chuyện quan trọng, chuyện tương lai cho cộng đồng Việt trên đất tạm dung hay cho chính quê hương VN không còn VC.

Khi người bạn gọi tôi là thành viên “NATO”, tức là nói mà không làm, là “nổ” thì tôi trả lời rằng chỉ cần nhìn thế hệ thứ hai làm tướng là sướng rồi, đó là Tướng Lương Xuân Việt. Truyền thông đã nói nhiều về vị Tướng gốc Việt đầu tiên này rồi nên tôi không cần nói gì nữa, nếu cần thì tôi xin nói thân phụ của Tướng Xuân Việt là TQLC Lương Xuân Đương đã nói với con bằng chính hành động của mình, của một người lính.


TQLC Lương Xuân Đương đã “đi xa”, không thể đến tham dự ngày vui của con, và Tướng Lương Xuân Việt không còn dịp để kính tặng cha nụ cười hạnh phúc, nhưng bù lại, đã có các TQLC khác, Lạt Ma, là bạn của bố Đương đến chúc mừng và nói với Việt: “Con hơn cha là nhà có phúc”.

Tướng Mỹ tên Việt gốc Việt hạnh phúc, cười vui mãn nguyện khi thấy các bộ quân phục TQLCVN của bố đến tham dự ngày Việt lên tướng.

Một tuổi trẻ khác nữa, cháu ngoại dòng họ Nguyễn Ngọc, đang “trên đường” lên cấp tướng, đó là Paul Choate.

Một vài thí dụ cụ thể nữa về thế hệ thứ hai đã noi theo gương cha.

Giấc mơ của Trương Khương khi còn là SVSQ trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam là được tuyển chọn đi học trường Võ Bị Westpoint Hoa Kỳ như một vài đồng môn khác, nhưng lực bất tòng tâm, nên sau khi định cư tại Hoa Kỳ, Trương Khương đã khuyến khích các con vào Westpoint.  “Hổ phụ sinh hổ tử”, Trương Vũ và em gái là Trương Nha Trang đều tốt nghiệp Westpoint, còn Trương Quân tốt nghiệp Air Force Academy. Bố lính Việt, con lính Mỹ, cả gia đình là đồng minh Mỹ-Việt đề huề.

Ngoài Tr/Tá Trương Vũ, con Trương Khương, còn ai đây nữa?

Lời chúc của cháu với danh tính đã ghi rõ ràng là: “Tăng Khôi Nguyên”, tên đã đẹp mà hình dáng thì lại càng khôi ngô tuấn tú với bộ quân phục oai phong của quân đội Hoa Kỳ. Con số 23/2 nói rằng cháu là thế hệ thứ hai của cựu SVSQ/VB Khóa 23. Tăng Khải Minh (*vì Minh lái xe tank nên bạn bè đổi họ Tăng sang Tank)     

Ngoài những sĩ quan Mỹ gốc Việt trên đây, chúng ta còn rất nhiều thế hệ thứ hai trong quân đội Hoa Kỳ với nhiều cấp bậc và chức vụ khác nhau, trong đó có con cháu của những TQLC Đoàn Trọng Cảo, Nguyễn Văn Diễn, Phạm Văn Tình, BB Quan Văn Kính, Nguyễn Phước Ái Đỉnh, Quan Văn Kính, KQ Võ Phi Hổ v.v.. đã đang phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ hoặc đã giải ngũ để tiếp tục con đường học vấn và phục vụ trong các bệnh viện, Dr Quan Văn Lộc là một thí dụ điển hình.

Người Việt tỵ nạn CS nói chung và đại gia đình quân đội nói riêng, cần có một thống kê về số con em gia nhập quân đội Hoa Kỳ, cần có và phổ biến tài liệu về những quân nhân Mỹ gốc Việt đã hy sinh trên chiến trường. Đó là những trang sử anh hùng, những thành quả hào hùng đáng ghi nhớ của người Việt trên đất Mỹ sau 42 năm tỵ nạn. Tôi đề nghị Hội Quân Nhân Mỹ Gốc Việt, trong đó có các luật sư đang hành nghề vốn là các cựu quân nhân nên lưu ý đến trang sử này.

Ngoài những đóng góp về quân sự, còn có biết bao con cháu chúng ta tham gia và thành công trong nhiều ngành nghề khác nữa. Có rất nhiều “quan tòa” và luật sư gốc Việt mà truyền thông nhắc tới, nhưng cũng có những luật sư âm thầm làm việc nghĩa, tôi xin đơn cử một vài trường hợp.

Anh chị KQ Joseph Đàm-Kim- Anh-Tô mời tôi đến tham dự lễ tốt nghiệp của 2 con, trong sân trường đại học UCLA, trong đám đông mênh mông mũ tốt nghiệp của các tân khoa, nổi bật lên là 2 cái mũ tốt nghiệp có chữ “FOR DAD” và “FOR MOM”. Cháu gái Vân Anh tặng “For Dad” cho bố Joseph-To, còn cháu trai Quốc Anh tặng “For Mom” cho mẹ là Đàm Kim Anh, hai món quà vô giá.

Ít ai biết bố các cháu vừa làm việc vừa tích lũy các lon nhôm, chai nhựa rồi mang đến “trung tâm recycle”, cứ mỗi 3 tháng, anh gom bạc cắc thu được rồi ký chi phiếu gửi tận tay lão Bà Bà Hạnh Nhơn, Hội Trưởng Hội H.O để giúp anh em thương binh, vì vậy hai cháu theo gương bố, tình nguyện làm “Public Defender”. Các cháu luôn tìm mọi dịp để tiếp xúc, tìm hiểu tâm tư của các nghi can, đặc biệt là các nghi can thanh thiếu niên gốc Việt.

Các cháu làm việc tại Sacramento, nhưng các “thân chủ” ở xa, nếu cần thì có thể vào website sau đây để tham khảo với các luật sư Pubdef gốc Việt.
 

http://www.pubdef.ocgov.com/indexv.htm.
 

Luật sư Vân Khanh, ái nữ của TQLC Lê Nguyên Khang thì lại dấn thân vào việc tìm sự sống cho cho các bệnh nhân bị ung thư máu. Tôi đã nhiều lần gặp cô cùng các bạn trẻ trong những địa điểm hội chợ y tế để kêu gọi “đồng hương giúp đỡ đồng hương”, xin đồng hương cho một tí “nứơc bọt” để may ra, trong hằng chục ngàn người sẽ có người cùng tế bào tủy với bệnh nhân để mà cứu sống những người đang chờ thần chết. Còn gì cao quý cho bằng?

Cùng một nghĩa cử đối với bệnh nhân ung thư, cháu Xuân Dung, ái nữ của nhà văn Cao Xuân Huy, sau khi bố ra đi vì bệnh ung thư mắt, cháu đã dồn tâm sức vào việc tìm hiểu căn bệnh nguy hiểm này. Ngoài việc nghiên cứu, cháu còn tham gia phong trào chạy bộ để gây quỹ giúp tổ chức Ocular Melanoma Foundation (OMF) tài trợ các cuộc khảo cứu nhằm tìm ra phương thức điều trị tốt hơn và hy vọng có được cách chữa được chứng ung thư này cho những bệnh nhân như bố cháu. Thư của cháu gửi bố:
                                               

 Bố Yêu Quý.

Con dự cuộc chạy bộ này cho bố. Con chạy cho bố vì sự chịu đựng, quyết tâm, và nhất là nỗi đau đớn (của cuộc chạy đường dài này) nhắc con nhớ lại sức mạnh và ý chí của bố khi phải đối diện với một điều kinh khủng và hoàn toàn mù mờ lúc đó. Lời chẩn đoán của bác sĩ là một cú shock cho bố và con, vì mình hoàn toàn không biết mức độ của nó như thế nào. “Choroidal Melanoma” là hàng chữ mình đọc trong kết quả thử máu, nhưng bố và con, mình chỉ biết hỏi nhau và tự hỏi: “ung thư mắt?”, “dữ vậy sao?”. Chúng ta chẳng biết gì hết, Bố cũng chẳng biết bệnh mình thế nào nữa. Con ước gì lúc đó mình biết nhiều hơn thế, con ước gì lúc đó bố có nhiều cách chữa trị để lựa chọn, con ước gì lúc đó có cách chữa bệnh cho bố…

Vì vậy, cuộc chạy bộ này của con là để cho bố. Con chạy cuộc đua này để ủng hộ cho tổ chức đang nỗ lực tìm ra cách chữa trị căn bệnh đó. Con biết là bố sẽ hãnh diện khi biết con bố làm chuyện này. Mỗi ngày con tìm thấy phấn khởi và động lực trong cuộc sống từ bố và cuộc đời bố đã sống. Con biết là bố lúc nào cũng bên con, và con biết là  bố sẽ có mặt ở đó khi con vượt đích đến của cuộc đua,

Con yêu bố.

Bé Xuân Dung.
                                               

Một cháu gái khác, vì muốn dấu tên và việc mình làm nên tôi gọi cháu là Trần Như Tiên. Như Tiên đã sớm biết theo gương ông nội và bố Trần Như Hùng mà đem tình thương gieo khắp đó đây. Cháu cổ động phong trào làm đẹp cho đời, làm đẹp cho những bệnh nhân điều trị “ki-mô” bị rụng tóc bằng cách nhờ bố cầm “tông-đơ” hớt trọc đầu để lấy tóc của mình làm tóc gỉa rồi đem tặng cho các bệnh nhân đã, đang, sẽ điều trị “ki-mô”... Chỉ có những phụ nữ mới hiểu giá trị của mái tóc, mới hiểu hết ý nghĩa cao quý của cháu Như Tiên.

Thấy con đầu trọc, không tóc, bố khóc vì sung sướng, thấy con đẹp như tiên nữ, hạnh phúc quá, bố ôm con vào lòng, nghẹn lời không nói.

Các cháu biết hy sinh chuyện riêng tư để nghĩ đến tha nhân thì đó là những tấm gương sáng cho đời noi theo. Gương sáng không nên cất trong tủ để soi một mình mà hay đưa cho mọi người soi chung, làm đẹp chung.

Học giỏi và thành công của tuổi trẻ gốc Việt thì đông lắm, nhiều lắm, vì nhiều lý do, các cháu còn phải lo chuyện riêng tư cũng là điều hợp lý, nhưng quý biết bao những tấm gương tuổi trẻ mà tôi vừa nêu trên. Nhưng sẽ thiếu sót nếu chúng ta không nhắc tới tuổi trẻ đang tiếp bước cha ông để tham gia vào dòng chính, tranh đấu tự do cho Việt Nam.

Mỗi hội đoàn quân đội hay quân trường ở hải ngoại này thường có một tập thể thế hệ thứ hai để sẵn sàng nối bước cha ông, trong số đó đáng kể nhất mà tôi biết là Thanh Thiếu Niên Đa Hiệu (TTNĐH) của trường Võ Bị và Young Marines TQLC.

TTNĐH đã biết học hỏi kinh nghiệm, đem ưu điểm của cha ông kết hợp với tự do, dân chủ và khoa học của dòng chính để tạo cho chính mình một phương thức hoạt động hữu hiệu với nhiều ưu điểm. Những lớp TTNĐH đi trước đã thành công, đã và đang dấn thân thêm nữa vào chính trường để đòi hỏi tự do dân chủ cho Việt Nam. TTNĐH đương thời và đi sau chắc chắn sẽ thành công và thành danh như hoặc hơn các anh chị TTNĐH đi trước. Chúng tôi cảm phục và rất hãnh diện về các cháu TTNĐH.

Trong các buổi lễ cộng đồng tại Nam CA, hẳn độc giả thường thấy một toán thanh thiếu niên trong quân phục TQLC/VN rước Quốc Quân Kỳ, kể cả nghi lễ chào kính và biểu tình chống Cộng, trong các đại hội gây quỹ cho thương binh VNCH và ủng hộ tuổi trẻ trong nước đấu tranh cho tự do dân chủ, thưa... đó là thế hệ thứ hai, thứ ba của TQLC/VN, các cháu YM (Young Marines). Trong số này có cháu đã tốt nghiệp ngành luật, ngành y. Chim đầu đàn YM là cháu Thu Hà, ái nữ của TQLC Định Nguyên. Các cháu đang là những mầm non để nối tiếp anh chị đi trước, để làm đẹp cho cộng đồng tỵ nạn gốc Việt. Các cháu được thương yêu, hường dẫn và giúp đỡ của các bậc cha chú.

Trong lãnh vực chính trị, tuy chỉ mới 40 năm mà nhiều tuổi trẻ gốc Việt đã đang là những vị dân cử, đó là niềm hãnh diện, không riêng cho cộng đồng người Việt hải ngoại, mà ngay cả báo chí trong nước cũng loan tin, người Việt trong nước cũng không tiếc lời khen ngợi và chúc mừng các vị dân cử này thành công.

Trong mùa bầu cử tháng 11/2014, riêng tại Orange County, CA, tuổi trẻ gốc Việt đã mang hết tâm huyết vào một cuộc tranh cử với những ứng cử viên kỳ cựu dòng chính và tuổi trẻ gốc Việt đã thắng, đã là Thượng Nghị Sĩ Tiểu Bang, là 3 Thị Trưởng và nhiều nghị viên thành phố, ủy viên giáo dục.

Cháu YM Thu Hà (trong hình thứ nhất từ phải) hiện nay (2016-18) là nghị viên thành phố Garden Grove, CA

Điều này nhắc cho những người Mỹ gốc Việt biết là hãy quyết tâm đi bầu cử. Mỗi lá phiếu của người Mỹ gốc Việt là tiếng nói mạnh nhất của chúng ta đối với dòng chính, dù cho chúng ta không thông thạo tiếng Mỹ nhưng chúng ta có quyền nói bằng tay cầm lá phiếu. Có quyền nói mà chúng ta từ chối thì hóa ra ngọng, chúng ta mong gì ở người khác nói thay hay làm thay những điều hữu ích cho chúng ta!

Nứơc Mỹ là môi trường lý tưởng cho tuổi trẻ tiến thân, mới chỉ trong thời gian ngắn, gần 40 năm mà thế hệ thứ hai thứ ba đã đạt được những thành quả đáng khâm phục thì chúng ta cứ vững tin ở các em. Các em không những sẽ đưa cộng đồng Việt tiến xa hơn nữa, tham gia dòng chính nhiều hơn nữa mà sẽ đem tự do, dân chủ, dân quyền về quê hương Việt Nam.

 Hiện nay, nước Mỹ là nơi có số sinh viên ngoại quốc đến học tập đông nhất, trong đó có hơn 16 ngàn sinh viên đến từ Việt Nam. Dù cho họ xuất thân từ nguồn gốc giai cấp độc tài, nhưng họ đang sống và học tập trong môi trường tự do dân chủ thì chính thành phần này sẽ là người đóng đinh đậy nắp quan tài CSVN.

Tuổi trẻ ngưởi Mỹ gốc Việt, tuổi trẻ trong nước du học Hoa Kỳ sẽ là những người cất những cái bình vôi độc tài đảng trị vào gốc cây đa để nứơc Việt chúng ta sạch sẽ bóng bọn xâm lăng phương Bắc. Hãy tin vào tuổi trẻ, dù ngàn năm bị giặc Tàu đô hộ mà Việt Nam vẫn là Việt Nam thì ngày nay, tuổi trẻ Việt, tự do, dân chủ, văn minh học được từ Mỹ thì đừng lo bọn phương Bắc xâm lăng.

Nhiệm vụ chúng ta, những người đi trước hãy nói cho tuổi trẻ biết việc chúng ta đã làm, làm dang dở trong 40 năm qua để họ tiếp tục.

Nói với “đồng minh”, tôi xin mựơn câu nói của ông Dan, giáo sư dạy sử của Shoreline Community College nói với một học trò cựu quân nhân gốc Việt:

-Từ đó tới nay, hơn hai mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình Việt Nam đầu tiên tới định cư ở Hoa Kỳ, chưa ai nói cho tôi nghe những điều này. Có thể, người ta muốn quên đi quá khứ, hoặc là người ta không có can đảm nói ra. Tôi đã hiểu, và tôi phải cám ơn ông.

Để kỷ niệm 40 năm tỵ nạn, người viết xin cám ơn cộng đồng người Mỹ gốc Việt, cám ơn tuổi trẻ “Vẻ Vang Dân Tộc Việt” về những thành quả mà chúng ta đã đạt được để hy vọng và tin tưởng rằng tương lai tuổi trẻ gốc Việt sẽ là những dân biểu và thượng nghị sĩ Liên Bang, những thống đốc. Tuổi trẻ hải ngoại là hậu phương vững mạnh yểm trợ tuổi trẻ trong nước để đuổi bọn xâm lăng Trung Cộng ra khỏi lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam./.

Capvanto

Ý kiến bạn đọc
21/08/201803:36:16
Khách
Thưa cô Hằng, cô Iris: Những tác già nồng cốt VVNM.
Cám ơn hai cô đã vừa ý với những chuyện có thật tôi nêu ra kèm theo hình chứng minh chứ không "nổ".
Nhưng đây mới chỉ là những tuổi trẻ trong các gia đình mà tôi quen biết, còn nhửng gia đình khác trong cộng đồng VN ở hải ngoại thì nhiều lắm, ước mong quý vị nhất là những tác giả góp bài VVNM nên bổ túc thêm những gì quý vị chứng kiến.
Tôi đã liên lạc và yêu cầu hội Cựu Quân Nhân Mỹ gốc Việt cung cấp tài liệu về những quân nhân (gốc Việt) đã hy sinh trên chiến trường và những quân nhân đang tiến lên những nấc thang cao tron g Quân Đội HK.
Cám ơn cô Hằng, Iris.
26/03/201804:29:10
Khách
Cảm ơn anh Tô Văn Cấp đã viết bài viết giá trị này. Chúng ta cần “talk” nhiều hơn nữa. Tôi rất ngưỡng mộ những nhân vật trong bài viết của anh, nhất là anh Vương Mộng Long, người nhân chứng lịch sử, dám lên tiếng phản bác giáo sư của mình. Mong được đọc thêm những bài viết khác của anh và những người cùng chí hướng.
15/03/201815:35:07
Khách
Cộng Đồng ngươ`i Việt Nam tỵ nạn ở Hoa Kỳ là một Cộng đồng nhỏ và rất yếu
kém về tài chính và chính tri. Trươ'c biến đổi của thời cuộc, chúng ta
phải tự tìm sự sống cho chính những thành viên của cộng đo^`ng, đừng tự
lừ dối và mong sự giúp đỡ của các đảng phái Cộng Hòa hay Dân Chủ, bài học
năm 1975 là bài học đắt giá, nếu không học thuộc thì chết không có chỗ chôn
14/03/201822:29:30
Khách
Bạn Hoàng Lan: Thế này nhé: Nếu có kẻ nào vỗ ngực khoe với tôi rằng hắn có "kiến thức siêu việt", thiên hạ có ba bồ chữ, thì hai bồ rưỡi đã thuộc về hắn, thì tôi sẽ nói với hắn rằng " Ông có " kiến thức siêu việt " thì ấm thân ông, chớ đất nước Việt nam có được lợi đếch gì đâu. Xin lỗi, dưới mắt thiên hạ, thì ông cũng chỉ là một kẻ vong quốc, một con số 0 to tướng mà thôi ".
14/03/201815:32:08
Khách
Bạn Hoàng Lan: Rất tiếc là bạn đã không hiểu lý do tại sao tôi viết lại những câu chuyện này. Hãy đọc kỹ lại bài chủ thì may ra có lẽ bạn sẽ hiểu đấy. Buồn cười rằng bạn đã tào lao vu khống rằng tôi muốn khoe mẽ " kiến thức siêu việt" ! Tôi chưa hề đăng hình , kê khai lý lịch và nơi cư ngụ thì tôi khoe mẽ để làm gì ?! Ăn được cái giải gì hở ?!
14/03/201812:37:15
Khách
Bạn TranVan
Tôi thực sự không hiểu bạn muốn góp ý những gì về bài viết trên??? Bạn gom góp tùm lum lan man và không liên quan gì tới bài viết??? Hay bạn tự đánh bóng mình qua những "kiến thức siêu việt" về chế độ cộng sản buôn dân bán nước hèn với giặc ác với dân và thần phục ông chủ lớn trung cộng???
14/03/201812:25:56
Khách
Bài viết rất mạch lạc phong phú, chứa chan niềm hy vọng ở một tương lai tươi sáng của tuổi trẻ hải ngoại, niềm mong ước sẽ là nền tảng vững mạnh yểm trợ cho tuổi trẻ trong nước hiện nay: "Đuổi cổ bọn trung cộng luôn có ý đồ xâm lăng Việt Nam"
14/03/201805:31:26
Khách
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế thế thời phải thế

Trong chuyến du hành năm ngày ở Nga và Âu châu, khi dừng chân ở xứ Latvia ngày 7/5/2005, tổng thống Bush tuyên bố Hoa kỳ nhận lỗi lầm đã ký thoả ước Yalta năm 1945 chia đôi ảnh hưởng ở Âu châu với Nga sô, và do đó đã khiến cho hàng triệu người ở các nước vùng Đông và Trung Âu rơi vào tay Cộng sản.
Hiệp định Yalta được ký kết khi Trận Thế Chiến Thứ Hai sắp chấm dứt giữa ba lãnh tụ Franklin Roosevelt của Hoa kỳ, Winston Churchill của Anh, và Josef Stalin của Nga.

Nhà văn Lỗ Ma Ni Constantin Virgil Gheorghiu trong cuốn truyện Les Sacrifíés du Danube đã diễn tả nỗi đau đớn uất hận của 150 triệu người Đông Âu tan gia bại sản vì đã bị Hoa Kỳ bán đứng cho Cộng sản để cứu vớt nền văn minh Tây Âu.
14/03/201805:22:52
Khách
" Đồng Minh" quý hoá !

Nhà biên khảo Trần Đông Phong -tác giả nhiều cuốn sách về chiến tranh Việt Nam – : Sau khi tổng thống Nixon sang thăm Bắc Kinh và ký kết bản Thông Cáo Chung Thượng Hải thì vấn đề be bờ Trung Cộng không còn cần thiết nữa, do đó vấn đề Việt Nam cũng không còn quan trọng và Việt Nam không còn có liên quan gì đến quyền lợi của Hoa Kỳ nữa.

Trong cuốn “The Vietnam War Files: Uncovering the Secret History of Nixon-Era Strategy”, tác giả Jeffrey Kimball viết : Trong cuộc thảo luận với thủ tướng Trung cộng Chu ân Lai vào hai ngày 9 và 10 tháng 7 năm 1971, Kissinger nói : “…. Tôi đã nói với thủ tướng ngày hôm qua, và tôi xin nói lại điều đó thêm một lần nữa là nếu sau khi Hoa Kỳ hoàn toàn rút quân đội ra khỏi Việt Nam mà nhân dân các nước tại Đông Dương có thay đổi chính phủ của họ thì Hoa Kỳ sẽ không bao giờ can thiệp”.

Trong cuốn Kissinger a Biography của tác giả Walter Isaacson viết rằng sau khi Đà Nẵng thất thủ , và sau khi họp với phía Việt nam, tướng Weyand bay về phúc trình cho tổng thống Ford và ngoại trưởng Kissinger. Nghe thuyết trình của Weyand xong, Kissinger nói với Ron Nessen - phụ tá báo chí của Ford- rằng: "Sao chúng không chết phứt cho rồi?", và rằng "Điều tệ hại nhất có thể xảy ra là chúng cứ sống dai dẳng hoài ".
14/03/201805:09:48
Khách
Sử gia Bill Laurie : Cứ bị cắt vịện trợ như quân đội Việt Nam Cộng Hoà đă bị thì không một quân đội nào có thể chống lại cuộc tấn công cuồng bạo của quân đội Bắc Việt, với thừa ứ những khẩu pháo, xe tăng, vũ khí, nhiên liệu, xe tải quân, đạn dược, do khối cộng sản cung cấp...Nếu quân đội Mỹ cũng bị cắt giảm cung ứng như quân đội Việt Nam Cộng Hoà vào năm 1974-1975 thì còn đứng vững được bao lâu ?

Dương Danh Dy- cựu đại sứ Việt Nam tại Trung cộng: Những người ở lứa tuổi tôi hiện nay đều không quên những viện trợ to lớn của nhân dân Trung Quốc anh em cho chúng ta trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Từ vũ khí đạn dược đến gạo ăn vải mặc, từ ô tô, tầu thủy, máy bay đến chiếc xe đạp, máy khâu, từ gói mì chính đến cái kim sợi chỉ…, không sao kể hết.
Tôi còn nhớ, từ chiếc mũ cối và đôi dép cao su Việt Nam đưa mẫu sang, các kỹ sư và công nhân Trung Quốc đã chế tạo cho quân đội ta và nhân dân ta những chiếc mũ cối và đôi dép lốp nổi tiếng một thời .
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 3,641,006
Mừng năm mới 2019, mời gặp lại một tác giả thân quen. Tác giả đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2014. Cô sinh năm 1962, tốt nghiệp Đại Học Mỹ Thuật năm 1988 khoa Đồ Họa tại Việt Nam, từng làm công việc thiết kế sáng tạo trong ngành quảng cáo. Cô đến Mỹ tháng 4 năm 2000, hiện là cư dân Waxahachie, Texas, trong một thành phố ít người Việt cư trú. Sau đây là bài viết mới của tác giả.
Tác giả đã dự Viết Về Nước Mỹ từ hơn 10 năm trước và mới nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2018. Bài đầu tiên của ông là "Kinh 5 Dị Nhân" kể về vùng quê, nơi có hơn 1000 người -phân nửa dân làng- vượt biên mà tới hơn 400 người tử vong- Hiện ông đang là cư dân Orlando, Florida, vùng đất rất quen với bão lụt. Loạt bài gần đây của ông là chuyện khởi nghiệp trên đất Mỹ. Bài mới, bắt đầu phần “dựng nghiệp”.
Tác giả định cư tại Pháp nhưng thường lui tới với nước Mỹ, tham gia Viết Về Nước Mỹ từ tháng Ba 2010. Họp mặt giải thưởng năm 2011, bà đã bay từ Paris sang California để nhận giải Vinh Danh Tác Giả -thường được gọi đùa là giải Á Hậu. Năm Mậu Tuất sắp hết, mời đọc bài viết với nhiều nụ cười, tiễn chân chó cưng.
Tác giả tham dự Viết Về Nước Mỹ từ năm 2004. Võ Phú là tên thật. Sinh năm 1978; sinh quán Nha Trang-Việt Nam; định cư, tại Virginia-Mỹ, 1994. Tốt nghiệp cử nhân Hóa, Virginia Commonwealth Uni-versity. Hiện đang làm việc và học tại Medical College of Virginia. Sau 12 năm bặt tin, tác giả lại tiếp tục Viết về nước Mỹ từ 2016, với sức viết mạnh mẽ và thứ tự hơn. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Với bài viết đầu tiên từ tháng Sáu 2017, tác giả đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX. Thư kèm bài, cô cho biết đang làm tax accountant ở Los Angeles, thường xuyên theo dõi và xúc động khi đọc những câu chuyện đời của người Việt trên xứ Mỹ. Bước sang năm thứ 20 của giải thưởng, tác giả đang tiếp tục cho thấy sức viết ngày càng mạnh mẽ hơn. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Tác giả đã nhận giải bán kết Viết Về Nước Mỹ 2002 với bài "Tiểu Hợp Chủng Quốc" kể về nơi cô làm việc, khi khủng bố tấn công nước Mỹ ngày 9 tháng 11 năm 2001. Viết về nước Mỹ sang năm thứ 15, cô nhận thêm giải danh dự với tự truyện về bệnh lãng tai bẩm sinh. Bài viết mới là tự truyện về mùa Giáng Sinh 1975.
Tác giả tên thật Tô Văn Cấp, sinh năm 1941, khoá 19 Võ Bị, 50 năm lính với Chiến Thương Bội Tinh. Mậu Thân 1968, ông là một Đại Đội Trưởng Thuỷ Quân Lục Chiến tại trận địa Phú Lâm, Chợ Lớn. Tháng Tư 1975, ở với đồng đội ven đô cho tới giờ phút cuối, sau đó là 10 năm tù công sản. Định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO1, dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, với nhiều bài viết giá trị, ông đã nhận giải á khôi năm 2014.
Tác giả từng nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2015. Ông là cựu sĩ quan VNCH, giảng viên trường Sinh ngữ quân đội, cựu tù cải tạo. Ông cũng là tác giả sách "Hành Trình về Phương Đông" do "Xây Dựng" xuất bản năm 2010. Mới nhất, là cuốn "Within & Beyond" do tác giả viết bằng Anh ngữ và tự xuất bản. Sau đây, bài viết mới.
Tác giả là một cây bút nữ, cư dân San Jose, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sang năm thứ 18 của giải thưởng, Lê Nguyễn Hằng nhận thêm giải Vinh Danh Tác Giả, với bài viết về “Ba Thế Hệ Tuổi Dậu” và bài “Từ Độ Mang Ơn”. Bài mới, tác giả viết cho mùa Giáng Sinh.
Tác giả lần đầu dự VVNM từ tháng 11 và đây là bài viết thứ hai của bà. Sinh năm 1955, qua Mỹ năm 1985, tên thật là Nguyễn thị Minh Thuý, người của sông Hương núi Ngự. Hiên nay còn làm việc và đang cư ngụ tại thành phố Hayward thuộc miền Bắc Cali. Xin lưu ý: Bút hiệu Minh Thúy có thể lầm với tác giả đã dự VVNM từ 2005: Minh Thùy (dấu huyền). Mong tác giả tiếp tục viết.