Tác giả: Trần Du Sinh
Bài số 5005-18-30705-vb5122916
Tác giả đã nhận giải Tác Phẩm Viết Về Nước Mỹ 2014. Lớn lên tại VN khi cả nước đã thành xã hội chủ nghĩa, ông kể, “Trong khi đợi bảo lãnh diện đoàn tụ gia đình, tôi có cơ may được học bổng của Liên Âu (EU) để hòan thành chương trình BA và MBA International Management." Sau khi định cư tại Hoa Kỳ, ông đã hoàn tất luận án tiến sĩ tại Đại Học ở Argosy, San Diego, và là một Phó Giám Đôc kỹ thuật hàng hải của Bộ Quốc Phòng Mỹ, làm việc tại Á Châu. Bài mới là hai tự sự ngắn của một người lính thủy.
1. Lạc Lối Thiên Đàng
Đêm nay mưa dầm. Lạnh buốt da, cảm giác buồn ngủ kéo tới nhưng hãy còn sớm. Xưa nay tôi vốn không muốn ngủ sớm vì thấy đời quá ngắn, ngủ nhiều cũng là cách hoang phí cuộc đời. Hơn nữa, đối với người lính thủy, những giây phút trên đất liền luôn là những món quà cần trân quý.
Lấy xe dạo một vòng phố nhỏ, định bụng sẽ tìm một quán rượu nào đó để làm một ly cho ấm bụng và thưởng thức một điếu thuốc thơm. Thiên đàng bỗng thấy rất gần. Một thiên đàng giản đơn cho người lính viễn chinh.
Mưa vẫn rơi mãi trên đường phố vắng đêm khuya. Bài hát nào đó từ đâu vọng về.
Xưa nay tôi vẫn thích những con phố nhỏ dù chẳng có lý do gì. Có lẽ đó cũng là cách tôi tách mình ra khỏi Little Saigon, nơi dường như có tiếng eo sèo mặt nước buổi đò đông của Tú Xương. Nơi đó có quá nhiều hương vị cuộc sống, mà đôi khi sự giản đơn lại khó kiếm.
Phố Everett gần như bị bỏ rơi. Chỉ còn vài quán rượu còn đỏ đèn. Đậu xe ven đường, rảo bước trong cơn mưa dầm. Lướt qua những ô cửa kiếng chỉ thấy vài bóng người. Thôi thì hẹn dịp cuối tuần vậy. Con phố này có vẻ thiếu sinh khí trong ngày thường.
Rồi bỗng có một quán sáng đèn. Một bà cụ nhỏ thó nhìn ngoài bảy mươi đang ngồi thả từng ngụm khói nhỏ. Đời có vẻ như đang ngừng trôi.
Một quán cà phê đóng cửa muộn.
Mừng như bắt được vàng, ít ra cũng có chỗ dừng lại để làm một điếu thuốc thơm. Tôi mở cửa ghé vào.
Một thế giới lạ lẫm đang hiện ra. Những bức tường treo toàn những bức tranh nguệch ngoạc khó hiểu. Một nhóm người lặng thinh ngồi nghe một cô gái tuổi ngoài hai mươi đang đọc thơ.
Tôi phải vuốt mặt với bàn tay tê giá của mình để biết chắc là mình không mê ngủ. Tôi đang lạc vào đêm thơ nhạc của những người Mỹ yêu văn chương bình dị nơi phố nhỏ.
Định thần một chút, tôi nhận ra mình là người không phải Mỹ trắng duy nhất ở đây. Cảm giác mình như từ một hành tinh khác mới đến trong mắt đám đông. Nhưng rồi những ánh mắt thân thiện, những nụ cười dễ mến đã làm tôi vững tâm mà ở lại.
Tôi tới quầy gọi một chai bia và một cái bánh ngọt. Quán đơn sơ chỉ có vậy.
Tìm một góc khuất, tôi kéo ghế ngồi lặng thinh. Tôi đã lạc vào thế giới của những nghệ sỹ và những tâm hồn thơ. Tôi cảm nhận mới mẻ nhiều hồi hộp. Tôi là kẻ ngoại đạo nơi đây.
Hình ảnh một nước Mỹ phồn thực vật chất kim tiền bỗng bị một phụ nữ trung niên xóa sạch khi cô đọc những bài thơ Haiku bằng tiếng Anh do chính cô sáng tác. Cô nói rằng cô rất yêu thích thơ Haiku của Nhật Bản và văn hóa Phương Đông. Còn tôi, một người Á Đông mà chẳng biết gì về thơ Haiku.
Đêm nay tôi thua toàn tập, cũng vì đang lạc lối trong một thiên đàng bé nhỏ. Thiên đàng này đang giang tay đón nhận một kẻ ngoại đạo như tôi.
Ừ nhỉ, thiên đàng thì phải luôn rộng cửa cho người lạc lối.
2. Cuối Cùng Cho Một Tình Yêu
Hôm qua là ngày trực kề cuối sau gần ba năm làm việc ở đây. Sau lần đi tuần tra cuối ngày, lẽ ra đi thẳng về phòng tắm rửa rồi nghỉ ngơi, tôi lại quyết định rẽ qua phòng điều khiển trung tâm để coi anh lính trực thế nào, coi ảnh có chơi Facebook mà lơ là trực hay không.
Nói vậy thôi chứ tôi biết ảnh lướt Facebook là cái chắc. Cái thế hệ trẻ này có thể nhịn ăn nhưng khó mà nhịn Facebook được.
Xưa nay tôi vốn bước đi khá nhanh và không lê gót nên ít khi nghe tiếng động. Nhiều lúc có chuyện gấp phải vượt qua mặt mấy anh lính to nặng hơn, chúng đều gọi tôi là Nin-ja vì xuất hiện lúc nào mà nó không hay biết.
Nhưng mỗi khi tới phòng điều khiển là tôi cố tình đi mạnh gót để tụi nó còn có thời gian mà giấu cái phone, chứ lỡ bắt gặp mà không chửi hay phạt cái gì đó thì quân lệnh không nghiêm. Vậy mà lần nào chúng cũng chậm chạp, hay là vì tôi đi nhanh quá nên bắt gặp. Thành ra phải chửi vài câu cho đúng bài.
Vào tới nơi thì tôi gặp hai người lính trẻ. Một người trực chánh ở phòng điều khiển trung tâm và một người đi tuần tra ghi chép thông số kỹ thuật của máy móc. Đứa sếp thì mới 20 tuổi cấp hạ sỹ nhất, còn đứa xó thì lại 23 tuổi, là hạ sỹ, cách nhau một bậc lương. Lý do là đứa lớn đi lính trễ hơn vì mất hai năm ở đại học. Hắn học xong hai năm để cha mẹ thỏa chí có con vào đại học như người ta, nhưng rồi hắn bị bộ quân phục quyến rũ nên xếp bút nghiêng lên đường nhập ngũ.
Còn đứa sếp kia thì dứt khoát hơn, không thích tốn thời gian ở đại học, vì hắn thấy mình không hạp ở môi trường quá nhiều lý thuyết. Thế là vừa tốt nghiệp xong vài tháng, hắn tuyên bố hùng hồn với cha mẹ hắn là hắn sẽ đi làm lính thủy. Thường thì mấy đứa Mỹ trắng mà quyết rồi thì cha mẹ chúng chỉ có ủng hộ mà thôi, chứ không như cha mẹ Việt quăng ra một mớ vũ khí lợi hại như 'cá không ăn muối cá ươn' hay 'áo mặc không qua khỏi đầu' để trấn áp con trẻ.
Hắn tên là Mark. Còn đứa lớn kia tên là Ruben, là người Mễ sanh tại Mỹ. Nói ra chắc bị chụp mũ là kỳ thị chứ thiệt tình cái anh Mỹ trắng này hắn lanh lợi và thông minh hơn anh Mễ kia nhiều dù có thua hai năm đại học đi nữa. Bù lại, hắn cũng láu cá như mấy đứa thông minh trên đời này. Nhưng hắn làm được việc, lại có tư chất lãnh đạo nên ông Thượng Sỹ già cho nó làm sếp nguyên cái phòng máy gồm 5-6 tên, trong đó có cả một chàng trung sỹ trên nó một cấp. Và anh trung sỹ này lại là Mỹ đen lười biếng và hậu đậu, vừa không khéo tay vừa chậm học. Nói tới đây chắc bị chụp mũ lần hai. Nhưng có sao thì nói vậy thôi.
Thực tế đã chứng minh rồi. Nước Nam Phi có người da trắng thì mới là nước tiến bộ nhất châu lục đen, còn mấy nước thuần da đen như Somali thì chỉ có ăn xin thế giới cả thế kỷ nay, nếu không thì đi làm hải tặc.
Vì Mark được nhiều người sếp khác thích nên tôi không bao giờ tỏ vẻ thích hắn vì sợ hắn kiêu ngạo. Thành ra tôi hay bắt lỗi nó để hạ bệ cái thói tự kiêu của hắn, và vô tình đì hắn khi nào không biết. Tôi lại bị nhiễm cái giáo dục hồi nhỏ ở quê nhà, tức là cứ bênh vực người nghèo hay người thấp cổ bé họng. Thành ra ai thuộc giai cấp ở trên như người Mỹ trắng đều khó được cảm tình của tôi. Tâm lý bênh người thiểu số dù sao cũng thắng thế trong tôi xưa nay.
Tối qua tình cờ bước vào nghe Mark la mắng Ruben lớn tiếng, tự nhiên tôi bênh ngang người Mễ y hệt đang bênh một giai cấp bị trị trước thực dân đô hộ. Thấy Mark rất giận nhưng không dám nói vì khoảng cách quyền lực giữa nó và tôi quá xa, tôi đã biết mình sai. Thường thì tôi chỉ làm việc với Thượng Sỹ già là sếp lớn của Mark.
Bảo Ruben tiếp tục đi tuần, tôi ngồi xuống nói chuyện với Mark. Tôi hỏi nó có phải không phục vì bị tôi rầy hay không.
Mark nói:
- Tôi biết là tôi quá trẻ để giữ vị trí supervisor trên mấy đứa kia. Nhưng nếu mấy ông đã tin tôi thì phải ủng hộ tôi thì công việc mới chạy được. Chứ tôi đâu có muốn bị ghét mà la mắng tụi nó. Tụi nó lười biếng thì tất cả đều thất bại.
Lúc này tôi thấy đúng là Mark có tư chất lãnh đạo thật. Hắn có cái họ gốc Anh Quốc. Ngày xưa người Anh cai trị Hồng Kông nên người Hồng Kông mới văn minh hơn người đồng hương đại lục vài chục năm tiến hóa xã hội. Người Anh cũng từng đô hộ các quốc gia khác toàn cầu, và kết quả là nước nào cũng văn minh hơn láng giềng không bị thực dân Anh đô hộ.
Lắng nghe Mark nói xong. Tôi thấy đến lúc phải nói thật cho hắn nghe suy nghĩ của mình về hắn. Tôi nói:
- Tôi sắp chuyển đi rồi nên hi vọng anh sẽ tin là tôi nói thật. Thật ra tôi đánh giá rất cao về khả năng lãnh đạo của anh, cũng như khả năng tiếp thu kiến thức rất nhanh của anh. Nhưng tôi sợ anh không có được sự ủng hộ của cấp dưới vì anh còn quá trẻ nên thiếu đắc nhân tâm. Anh nên để ý lời lẽ của mình, cũng như thái độ quá cực đoan với cấp dưới. Nhưng tối nay tôi đã sai vì làm anh nghĩ là tôi không ủng hộ quyền hạn của anh.
Tới đây tôi thấy khóe mắt hắn long lanh, đầu hắn cúi xuống. Hắn chỉ mới đôi mươi, gương mặt vẫn nguyên nét thánh thiện. Suýt nữa là tôi đã không qua mặt được hắn khi cố giấu một luồng xúc cảm thật mạnh từ đâu ập tới. Tôi thấy hắn tội nghiệp kinh khủng. Tôi hắng giọng nói:
- Thôi, khuya rồi. Tôi phải về phòng. Hãy gọi tôi bất cứ lúc nào cần giúp đỡ hay thấy lo lắng về điều gì nhé. Gặp lại anh vào sáng mai.
Trở về phòng, tôi cũng bất ngờ với chính mình, vì không hiểu làm sao mà mình lại nói thẳng được với một người lính cách xa mình nhiều như vậy.
Có lẽ do mình sắp chuyển đi. Và đó có thể là cuối cùng cho một tình yêu, một tình yêu đối với một nơi và những người đã gắn bó với mình suốt ba năm đầu khó khăn nhất trong sự nghiệp làm sỹ quan kỹ thuật của mình.
Như dòng sông vẫn chảy ra biển lớn. Mình rồi cũng sẽ ra biển lớn, nhưng nhánh sông ngày xưa luôn là kỷ niệm đẹp.
Trần Du Sinh
Bài số 5005-18-30705-vb5122916
Tác giả đã nhận giải Tác Phẩm Viết Về Nước Mỹ 2014. Lớn lên tại VN khi cả nước đã thành xã hội chủ nghĩa, ông kể, “Trong khi đợi bảo lãnh diện đoàn tụ gia đình, tôi có cơ may được học bổng của Liên Âu (EU) để hòan thành chương trình BA và MBA International Management." Sau khi định cư tại Hoa Kỳ, ông đã hoàn tất luận án tiến sĩ tại Đại Học ở Argosy, San Diego, và là một Phó Giám Đôc kỹ thuật hàng hải của Bộ Quốc Phòng Mỹ, làm việc tại Á Châu. Bài mới là hai tự sự ngắn của một người lính thủy.
* * *
1. Lạc Lối Thiên Đàng
Đêm nay mưa dầm. Lạnh buốt da, cảm giác buồn ngủ kéo tới nhưng hãy còn sớm. Xưa nay tôi vốn không muốn ngủ sớm vì thấy đời quá ngắn, ngủ nhiều cũng là cách hoang phí cuộc đời. Hơn nữa, đối với người lính thủy, những giây phút trên đất liền luôn là những món quà cần trân quý.
Lấy xe dạo một vòng phố nhỏ, định bụng sẽ tìm một quán rượu nào đó để làm một ly cho ấm bụng và thưởng thức một điếu thuốc thơm. Thiên đàng bỗng thấy rất gần. Một thiên đàng giản đơn cho người lính viễn chinh.
Mưa vẫn rơi mãi trên đường phố vắng đêm khuya. Bài hát nào đó từ đâu vọng về.
Xưa nay tôi vẫn thích những con phố nhỏ dù chẳng có lý do gì. Có lẽ đó cũng là cách tôi tách mình ra khỏi Little Saigon, nơi dường như có tiếng eo sèo mặt nước buổi đò đông của Tú Xương. Nơi đó có quá nhiều hương vị cuộc sống, mà đôi khi sự giản đơn lại khó kiếm.
Phố Everett gần như bị bỏ rơi. Chỉ còn vài quán rượu còn đỏ đèn. Đậu xe ven đường, rảo bước trong cơn mưa dầm. Lướt qua những ô cửa kiếng chỉ thấy vài bóng người. Thôi thì hẹn dịp cuối tuần vậy. Con phố này có vẻ thiếu sinh khí trong ngày thường.
Rồi bỗng có một quán sáng đèn. Một bà cụ nhỏ thó nhìn ngoài bảy mươi đang ngồi thả từng ngụm khói nhỏ. Đời có vẻ như đang ngừng trôi.
Một quán cà phê đóng cửa muộn.
Mừng như bắt được vàng, ít ra cũng có chỗ dừng lại để làm một điếu thuốc thơm. Tôi mở cửa ghé vào.
Một thế giới lạ lẫm đang hiện ra. Những bức tường treo toàn những bức tranh nguệch ngoạc khó hiểu. Một nhóm người lặng thinh ngồi nghe một cô gái tuổi ngoài hai mươi đang đọc thơ.
Tôi phải vuốt mặt với bàn tay tê giá của mình để biết chắc là mình không mê ngủ. Tôi đang lạc vào đêm thơ nhạc của những người Mỹ yêu văn chương bình dị nơi phố nhỏ.
Định thần một chút, tôi nhận ra mình là người không phải Mỹ trắng duy nhất ở đây. Cảm giác mình như từ một hành tinh khác mới đến trong mắt đám đông. Nhưng rồi những ánh mắt thân thiện, những nụ cười dễ mến đã làm tôi vững tâm mà ở lại.
Tôi tới quầy gọi một chai bia và một cái bánh ngọt. Quán đơn sơ chỉ có vậy.
Tìm một góc khuất, tôi kéo ghế ngồi lặng thinh. Tôi đã lạc vào thế giới của những nghệ sỹ và những tâm hồn thơ. Tôi cảm nhận mới mẻ nhiều hồi hộp. Tôi là kẻ ngoại đạo nơi đây.
Hình ảnh một nước Mỹ phồn thực vật chất kim tiền bỗng bị một phụ nữ trung niên xóa sạch khi cô đọc những bài thơ Haiku bằng tiếng Anh do chính cô sáng tác. Cô nói rằng cô rất yêu thích thơ Haiku của Nhật Bản và văn hóa Phương Đông. Còn tôi, một người Á Đông mà chẳng biết gì về thơ Haiku.
Đêm nay tôi thua toàn tập, cũng vì đang lạc lối trong một thiên đàng bé nhỏ. Thiên đàng này đang giang tay đón nhận một kẻ ngoại đạo như tôi.
Ừ nhỉ, thiên đàng thì phải luôn rộng cửa cho người lạc lối.
2. Cuối Cùng Cho Một Tình Yêu
Hôm qua là ngày trực kề cuối sau gần ba năm làm việc ở đây. Sau lần đi tuần tra cuối ngày, lẽ ra đi thẳng về phòng tắm rửa rồi nghỉ ngơi, tôi lại quyết định rẽ qua phòng điều khiển trung tâm để coi anh lính trực thế nào, coi ảnh có chơi Facebook mà lơ là trực hay không.
Nói vậy thôi chứ tôi biết ảnh lướt Facebook là cái chắc. Cái thế hệ trẻ này có thể nhịn ăn nhưng khó mà nhịn Facebook được.
Xưa nay tôi vốn bước đi khá nhanh và không lê gót nên ít khi nghe tiếng động. Nhiều lúc có chuyện gấp phải vượt qua mặt mấy anh lính to nặng hơn, chúng đều gọi tôi là Nin-ja vì xuất hiện lúc nào mà nó không hay biết.
Nhưng mỗi khi tới phòng điều khiển là tôi cố tình đi mạnh gót để tụi nó còn có thời gian mà giấu cái phone, chứ lỡ bắt gặp mà không chửi hay phạt cái gì đó thì quân lệnh không nghiêm. Vậy mà lần nào chúng cũng chậm chạp, hay là vì tôi đi nhanh quá nên bắt gặp. Thành ra phải chửi vài câu cho đúng bài.
Vào tới nơi thì tôi gặp hai người lính trẻ. Một người trực chánh ở phòng điều khiển trung tâm và một người đi tuần tra ghi chép thông số kỹ thuật của máy móc. Đứa sếp thì mới 20 tuổi cấp hạ sỹ nhất, còn đứa xó thì lại 23 tuổi, là hạ sỹ, cách nhau một bậc lương. Lý do là đứa lớn đi lính trễ hơn vì mất hai năm ở đại học. Hắn học xong hai năm để cha mẹ thỏa chí có con vào đại học như người ta, nhưng rồi hắn bị bộ quân phục quyến rũ nên xếp bút nghiêng lên đường nhập ngũ.
Còn đứa sếp kia thì dứt khoát hơn, không thích tốn thời gian ở đại học, vì hắn thấy mình không hạp ở môi trường quá nhiều lý thuyết. Thế là vừa tốt nghiệp xong vài tháng, hắn tuyên bố hùng hồn với cha mẹ hắn là hắn sẽ đi làm lính thủy. Thường thì mấy đứa Mỹ trắng mà quyết rồi thì cha mẹ chúng chỉ có ủng hộ mà thôi, chứ không như cha mẹ Việt quăng ra một mớ vũ khí lợi hại như 'cá không ăn muối cá ươn' hay 'áo mặc không qua khỏi đầu' để trấn áp con trẻ.
Hắn tên là Mark. Còn đứa lớn kia tên là Ruben, là người Mễ sanh tại Mỹ. Nói ra chắc bị chụp mũ là kỳ thị chứ thiệt tình cái anh Mỹ trắng này hắn lanh lợi và thông minh hơn anh Mễ kia nhiều dù có thua hai năm đại học đi nữa. Bù lại, hắn cũng láu cá như mấy đứa thông minh trên đời này. Nhưng hắn làm được việc, lại có tư chất lãnh đạo nên ông Thượng Sỹ già cho nó làm sếp nguyên cái phòng máy gồm 5-6 tên, trong đó có cả một chàng trung sỹ trên nó một cấp. Và anh trung sỹ này lại là Mỹ đen lười biếng và hậu đậu, vừa không khéo tay vừa chậm học. Nói tới đây chắc bị chụp mũ lần hai. Nhưng có sao thì nói vậy thôi.
Thực tế đã chứng minh rồi. Nước Nam Phi có người da trắng thì mới là nước tiến bộ nhất châu lục đen, còn mấy nước thuần da đen như Somali thì chỉ có ăn xin thế giới cả thế kỷ nay, nếu không thì đi làm hải tặc.
Vì Mark được nhiều người sếp khác thích nên tôi không bao giờ tỏ vẻ thích hắn vì sợ hắn kiêu ngạo. Thành ra tôi hay bắt lỗi nó để hạ bệ cái thói tự kiêu của hắn, và vô tình đì hắn khi nào không biết. Tôi lại bị nhiễm cái giáo dục hồi nhỏ ở quê nhà, tức là cứ bênh vực người nghèo hay người thấp cổ bé họng. Thành ra ai thuộc giai cấp ở trên như người Mỹ trắng đều khó được cảm tình của tôi. Tâm lý bênh người thiểu số dù sao cũng thắng thế trong tôi xưa nay.
Tối qua tình cờ bước vào nghe Mark la mắng Ruben lớn tiếng, tự nhiên tôi bênh ngang người Mễ y hệt đang bênh một giai cấp bị trị trước thực dân đô hộ. Thấy Mark rất giận nhưng không dám nói vì khoảng cách quyền lực giữa nó và tôi quá xa, tôi đã biết mình sai. Thường thì tôi chỉ làm việc với Thượng Sỹ già là sếp lớn của Mark.
Bảo Ruben tiếp tục đi tuần, tôi ngồi xuống nói chuyện với Mark. Tôi hỏi nó có phải không phục vì bị tôi rầy hay không.
Mark nói:
- Tôi biết là tôi quá trẻ để giữ vị trí supervisor trên mấy đứa kia. Nhưng nếu mấy ông đã tin tôi thì phải ủng hộ tôi thì công việc mới chạy được. Chứ tôi đâu có muốn bị ghét mà la mắng tụi nó. Tụi nó lười biếng thì tất cả đều thất bại.
Lúc này tôi thấy đúng là Mark có tư chất lãnh đạo thật. Hắn có cái họ gốc Anh Quốc. Ngày xưa người Anh cai trị Hồng Kông nên người Hồng Kông mới văn minh hơn người đồng hương đại lục vài chục năm tiến hóa xã hội. Người Anh cũng từng đô hộ các quốc gia khác toàn cầu, và kết quả là nước nào cũng văn minh hơn láng giềng không bị thực dân Anh đô hộ.
Lắng nghe Mark nói xong. Tôi thấy đến lúc phải nói thật cho hắn nghe suy nghĩ của mình về hắn. Tôi nói:
- Tôi sắp chuyển đi rồi nên hi vọng anh sẽ tin là tôi nói thật. Thật ra tôi đánh giá rất cao về khả năng lãnh đạo của anh, cũng như khả năng tiếp thu kiến thức rất nhanh của anh. Nhưng tôi sợ anh không có được sự ủng hộ của cấp dưới vì anh còn quá trẻ nên thiếu đắc nhân tâm. Anh nên để ý lời lẽ của mình, cũng như thái độ quá cực đoan với cấp dưới. Nhưng tối nay tôi đã sai vì làm anh nghĩ là tôi không ủng hộ quyền hạn của anh.
Tới đây tôi thấy khóe mắt hắn long lanh, đầu hắn cúi xuống. Hắn chỉ mới đôi mươi, gương mặt vẫn nguyên nét thánh thiện. Suýt nữa là tôi đã không qua mặt được hắn khi cố giấu một luồng xúc cảm thật mạnh từ đâu ập tới. Tôi thấy hắn tội nghiệp kinh khủng. Tôi hắng giọng nói:
- Thôi, khuya rồi. Tôi phải về phòng. Hãy gọi tôi bất cứ lúc nào cần giúp đỡ hay thấy lo lắng về điều gì nhé. Gặp lại anh vào sáng mai.
Trở về phòng, tôi cũng bất ngờ với chính mình, vì không hiểu làm sao mà mình lại nói thẳng được với một người lính cách xa mình nhiều như vậy.
Có lẽ do mình sắp chuyển đi. Và đó có thể là cuối cùng cho một tình yêu, một tình yêu đối với một nơi và những người đã gắn bó với mình suốt ba năm đầu khó khăn nhất trong sự nghiệp làm sỹ quan kỹ thuật của mình.
Như dòng sông vẫn chảy ra biển lớn. Mình rồi cũng sẽ ra biển lớn, nhưng nhánh sông ngày xưa luôn là kỷ niệm đẹp.
Trần Du Sinh
Chi van thanh: Cám ơn lời bình dễ thương của bạn. Bạn trích dẫn chi tiết chứng tỏ bạn rất yêu văn chương. Xin tiếp tục ủng hộ mục Viết Về Nước Mỹ nhé. Tiếng Việt còn, người Việt còn.
"Cuối Cùng Cho Một Tình Yêu" - nhớ lại sách " Đắc Nhân tâm " của Nguyễn Hiến Lê.
..... Theo tôi, Người lãnh đạo giỏi là người có khả Năng quyết định và chịu trách nhiệm, vừa có lý ,có tình, và không cần che cảm xúc. và v.v.
Cảm ơn Dự Sinh, chúc dồi dào sức khỏe, tràn đầy nghị lực để cống hiến món ăn tinh thần quí giá.