Hôm nay,  

Du Học Tại Hoa Kỳ

06/06/201100:00:00(Xem: 169571)

Du Học Tại Hoa Kỳ

Tác giả: Vũ Ngọc Bích
Bài số 3195-12-28495vb2060611

img153-large-contentVũ Ngọc Bích là tác giả bài "Chuyện Tháng Tư 75: Đi Mỹ" Đi Mỹ!" kể chuyện đưa gia đình rời Việt Nam vào những ngày cuối Tháng Tư 1975. Ông sinh năm 1937, tốt nghiệp khoá 18 sĩ quan trừ bị Thủ Đức, từng du học Hoa Kỳ 1970-1971. Hiện là cư dân Santa Ana. Bài mới của ông là hồi ký du học tại Virginia trước 1975.
Ảnh: từ trái, Đại uý Phạm Ngọc Giang, và Đại Uý Vũ Ngọc Bích trong thời gian du học Hoa Kỳ 1970-1971. 

***

Một buổi sáng tháng 10 năm 1970, tôi đã sửa soạn xong hành trang để đi du học tại Hoa Kỳ. Bên trong chiếc va li khá lớn vợ tôi mua chiều hôm trước, ngoài mấy bộ quân phục đại lễ và vật dụng linh tinh, tôi còn nhét thêm bộ đồ veste dân sự để mặc lúc có dịp đi chơi cuối tuần. Tôi cũng chuẩn bị thêm một túi xách đeo vai, bên trong đựng giấy tờ quan trọng, một ít thuốc men, phòng khi bất trắc gặp cơn trái nắng trở trời.
Thiếu tá Williams, sĩ quan liên lạc của cơ quan MACV, tiễn chúng tôi lên máy bay. Ông bắt tay từng sĩ quan một, và chúc chúng tôi một chuyến đi vui vẻ bình yên.
Tôi bước lên phía khung giữa máy bay, và chọn được một chỗ ngồi ngay sát cửa sổ. Chiếc phản lực cơ của hãng Pan America từ từ tiến ra phi đạo. Người phi công gia tăng vận tốc, chiếc máy bay phản lực rú lên rồi nhẹ nhàng cất cánh. Tôi nhìn xuống phía dưới, những dẫy nhà trong trại Phi Long, khu vực Lăng Cha Cả, khu Ngã Tư Bảy Hiền, trại nhẩy dù Hoàng Hoa Thám hiện ra trước mắt tôi, nhỏ dần, nhỏ dần, rồi khuất sau những đám mây trắng.
Thế là tôi xa Saigon, thành phố thân yêu, xa người vợ hiền và ba đứa con còn nhỏ dại để bước vào một chuyến viễn du đầy háo hức. Tôi đã thực hiện được một phần ước mơ từ thuở thơ ấu: Được du học ở ngoại quốc để có cơ hội học hỏi thêm. Lần này, du học tại Mỹ, tôi cũng đã bước vào tuổi Tam Thập Nhi Lập, với trách nhiệm và bổn phận của một sĩ quan đồng minh, với tâm niệm phải luôn luôn cẩn thận trong lời nói, việc làm, để giữ tác phong và danh dự cho Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa.
Tôi tự nhủ mình phải giữ cung cách đứng đắn, và tìm mọi cơ hội làm rạng danh cho hai chữ Việt Nam.
Gọn gàng trong bộ đại lễ mầu “beige”, tôi cảm thấy mình có vẻ nghiêm trang và đứng đắn hơn.
Trạm dừng chân đầu tiên, chúng tôi ghé phi trường tại căn cứ không quân Clarkfield. Sau khi nghỉ chừng hơn một tiếng, máy bay tiếp tục cuộc hành trình. Mấy tiếng sau, lại ghé Guam, và rồi tới phi trường Honolulu. Tại thủ phủ của tiểu bang Hawaii, chúng tôi nghỉ ngơi chùng hai tiếng đồng hồ. Trong chặng cuối cùng, phi cơ bay thẳng tới phi trường căn cứ không quân Travis Air Force Base, gần San Francisco.
Trong suốt 15 tiếng đồng hồ trên không, chúng tôi được các nữ tiếp viên phi hành mời dùng nước ngọt và các thứ bánh. Bữa ăn chiều thịnh soạn hơn, có “beefsteak” ăn với khoai tây chiên, salad, “cocktail” và trái cây tráng miệng. Các cô tiếp viên phi hành thì cứ một điều “Yes, Sir”, khiến tôi có cảm tưởng các cô nầy đều đã được huấn luyện rất thuần thục về môn giao tế nhân sự! Các cô tiếp viên phi hành của hãng hàng không Pan American trong đồng phục mầu xanh da trời, trông thật xinh đẹp dễ thương. Họ đội mũ mầu xanh đậm có cài huy hiệu của hãng máy bay. Tất cả đều ăn nói nhỏ nhẹ và lịch sự. Họ nhắc nhở hành khách cột chặt giây an toàn, để chuẩn bị cho máy bay hạ cánh.
Chiếc phản lực giảm dần tốc lực. Tôi nghe tiếng những bánh đáp mở ra. Phi cơ từ từ hạ cánh. Thành phố San Francisco về đêm trông y như một biển ánh sáng; những ánh đèn mầu nhấp nhánh như những viên kim cương giát trên tấm thảm đen phía dưới. Qua khung cửa nhỏ của máy bay, tôi thấy xa lộ hai chiều rực lên ánh sáng. Mỗi bên có bốn đường xe chạy. Dòng xe chạy dài thẳng tắp, xe cộ nối đuôi nhau chạy hai chiều ngược xuôi, đèn pha mở sáng chưng. Từ trên máy bay nhìn xuống, mấy xa lộ trông giống như những con rắn khổng lồ đang uốn mình bò dưới ánh đèn rực rỡ. Chiếc phản lực cơ từ từ tiến vào chỗ đậu đã định sẵn. Hành khách chuẩn bị bước ra để tới nơi nhận hành lý.
Trong số hơn 30 sĩ quan thuộc các quân, binh chủng được gửi đi du học các ngành chuyên môn tại Hoa Kỳ, chỉ có Đại úy Tân và tôi là học ở tiểu bang Virginia xa tận miền Đông Hoa Kỳ. Do đó, chúng tôi được Đại úy Steve, sĩ quan liên lạc, hướng dẫn đến các máy bay qua các tiểu bang có khóa học chuyên môn… Buổi sáng hôm sau, chúng tôi đã tới phi trường Richmond, thủ phủ của tiểu bang Virginia, cách Fort Lee, nơi chúng tôi theo học khoảng 45 dậm.
Chúng tôi đến Virginia vào giữa mùa Thu, khi rừng phong đang thay lá, đổi mầu từ xanh, vàng, sang mầu cam và đỏ ối. Từ xa trông rừng phong giống như một bức tranh thủy mạc tuyệt đẹp Đại úy Scott, sĩ quan liên lạc của Trung Tâm Điều Hành Tiếp Vận Lục Quân Hoa Kỳ, tới đón chúng tôi tại phi trường Richmond.
Đại úy Scott đã từng phục vụ ở Việt Nam trong đơn vị tác chiến. Ông lập gia đình với một phụ nữ Việt Nam nên ông có vẻ dành nhiều thiện cảm cho hai sĩ quan Việt Nam chúng tôi. Tiểu bang Virginia còn được mệnh danh là xứ của những cặp tình nhân yêu nhau! Với phong cảnh trữ tình và khí hậu dịu mát như thế, Virginia thật xứng đáng với danh xưng nầy.
Sau một giờ di chuyển, chúng tôi đã tới “campus” của Fort Lee. Đại úy Scott đưa chúng tôi tới một dẫy nhà thật dài có hành lang nối từ đầu dẫy tới cuối dẫy. Khu cư xá nầy dành riêng cho các sĩ quan đồng minh sử dụng trong thời gian theo học khóa huấn luyện. Chúng tôi mỗi người được ở một phòng với đầy đủ tiện nghi. Cứ cách hai ngày, lại có người tới hút bụi, lau chùi bàn ghế và thay khăn trải giường. Trường tôi theo học được xây cất trên một khu đất rộng hơn 100 mẫu tây. Tòa nhà chính là một cao ốc 12 tầng, phía dưới có “basement” và các tòa nhà phụ thuộc dùng làm phòng huấn luyện, phòng hành chánh.
Cơ sở nầy mang tên Trung Tâm Điều Hành Tiếp Vận Lục Quân Hoa Kỳ (United Army Logistics Management Center). Cơ sở rộng mênh mông có đủ thứ hết : Nào là Câu Lạc Bộ, cư xá cho sĩ qun, bưu điện, ngân hàng, cây xăng, một số cửa hàng, và Quân Tiếp Vụ. Phía ngoài cổng có trạm gác của quân cảnh. Sau khi đã ổn định chỗ ăn, chỗ ở, buổi chiều chúng tôi được mời tham dự dạ tiệc tại Câu Lạc Bộ sĩ quan do Đại tá chỉ huy trưởng khoản đãi các sĩ quan đồng minh. Đây cũng là dịp để giới thiệu chúng tôi với các huấn luyện viên nhà trường. Đại úy Tân và tôi đều mặc quân phục đại lễ có gắn huy chương thòng. Nhân dịp này, mỗi người chúng tôi được giới thiệu với một người bảo trợ “sponsor”; mục đích là để hướng dẫn người khóa sinh trong những ngày đầu mới tới Hoa Kỳ.
Ngày đầu tiên đi học thật vui vì chúng tôi có dịp gặp gỡ, nói chuyện với các sĩ quan đồng minh từ các quốc gia trong khối Tự Do đến. Huấn luyện viên yêu cầu từng khóa sinh đứng dậy xưng danh, cấp bậc và cho biết mình từ quốc gia nào đến. Khi đến phiên chúng tôi đứng lên tự giới thiệu, biết cả hai chúng tôi đều là những sĩ quan đã có kinh nghiệm trận mạc trên chiến trường Việt Nam, tất cả các sĩ quan bạn đều đứng dậy, đồng loạt vỗ tay hoan nghênh.
Lớp chúng tôi có 40 khóa sinh, phần đông đến từ các quốc gia thuộc khối Tự do. Cũng có 8 sĩ quan Mỹ tham dự khóa học này. Trước khi đến lớp, mỗi khóa sinh được phát một tập bài học dầy cộm để chuẩn bị. Nhờ đã đọc qua nội dung bài học từ đêm hôm trước, nên khi tới lớp, huấn luyện viên giảng thì tôi thu thập được ngay. Phương thức huấn luyện của Hoa Kỳ rất thoải mái. Trước khi vào bài, huấn luyện viên thường kể một câu chuyện tiếu lâm khá vui, có liên hệ ít nhiều đến đề tài giảng dậy, làm cả lớp cười, và không khí lớp học vui nhộn hẳn lên…Khóa sinh cũng được phép mang cả ly cà phê nóng để trên bàn, uống tự nhiên.. Nhưng nếu muốn hút thuốc lá thì phải đợi đến giờ ra chơi và hút ở ngoài sân. Khóa học chú trọng tới cả lý thuyết lẫn thực hành. Mỗi khi sĩ quan huấn luyện viên giảng bài xong, ông chia chúng tôi ra từng nhóm, mỗi nhóm mười người, để thảo luận và thực tập những điều vừa học.
Thời gian huấn luyện trôi đi thật êm đềm trong tình thân hữu giữa các sĩ quan đồng minh chúng tôi: Iran, Ấn Độ, Hồi Quốc, Israel, Đại Hàn, Việt Nam và Phi Luật Tân. Nói về quân phục và cấp bậc thì mỗi quốc gia đều có quân phục riêng và lon lá cũng khác nhau. Chỉ có cấp tướng thì mang sao giống nhau. Điểm đặc biệt là trong thời gian huấn luyện tại Virginia và Thủ đô Washington DC, chúng tôi được lãnh lương gấp đôi nếu so sánh với các sĩ quan bạn được huấn luyện tại các tiểu bang khác. Lý do là giá sinh hoạt ở hai địa phương này tương đối cao.
Vào những ngày nghỉ cuối tuần, chúng tôi thường đi chơi chung với nhau. Đại úy Tân và tôi thường lân la vào PX, một thứ cửa hàng bách hóa bán đủ loại mặt hàng, kể cả rất nhiều loại mỹ phẩm cho phụ nữ. Đại úy Tân còn độc thân, chẳng tha thiết những món hàng nầy, nên chỉ đi theo tôi coi cho vui thôi. Nhớ lời hứa với vợ tôi hôm tiễn chân ở phi trường, tôi đem theo mảnh giấy, trên đó ghi những thứ mà nàng thích; nào là son phấn, các thứ nước hoa, nữ trang các loại, khăn san quàng cổ, kem dưỡng da…Tôi mất khá nhiều thì giờ mới lựa chọn cho đúng với những món hàng vợ tôi đã căn dặn. Tôi cũng không quên lựa hai con búp bê biết nhắm mắt, mở mắt cho hai con gái tôi, và chiếc xe hơi nhỏ chạy bằng pin cho thằng con trai bốn tuổi. Khi mua sắm gần xong, tôi mới sực nhớ vợ tôi còn dặn mua cho nàng vài chiếc “soutien”-nịt ngực! Có lẽ một số quý bạn phái nam cũng không khác gì tôi. Có những cái trong đời sống vợ chồng đã quá quen thuộc, mà khi cần phải nhớ chi tiết, chúng ta đều không thể nhớ nổi.
Đó là lúc tôi đứng tần ngần trước hàng hàng lớp lớp những chiếc “soutien”, đủ mầu, đủ kiểu, đủ mọi cỡ kích thước… Tôi cứ đi đi lại lại, nhìn lui nhìn tới, mà không thể quyết định được cần phải mua cho vợ mình “size” nào! Thời gian đó ở Việt Nam, quý vị phụ nữ vẫn còn dùng số 32, 33, 34 cho đến khoảng 40 ngoài để xác định kích thước y phục bên trong và bên ngoài. Do đó, kích thước vợ tôi dăn dò, theo hệ thống Việt Nam, không thể tính tương đương với kích thước ABCD gì đó của Mỹ được. Mà dù có phương pháp, hay công thức tính toán đó, tôi cũng mù tịt!
Mấy năm sống chung với bà xã, có bao giờ tôi để ý nàng mặc áo lót loại gì, kích thước ra sao đâu. Nên bây giờ, tôi cứ đứng tần ngần, chưa biết quyết định ra sao. Rất may, từ dẫy bán đồ gia dụng bên cạnh, một nàng nữ quân nhân Hoa Kỳ xuất hiện. Cô nàng khoảng hăm ba, hăm bốn, tóc vàng mắt xanh, gọn gàng trong bộ đồng phục nâu nhạt của lục quân. Nàng thuộc loại người Mỹ nhỏ con, không thuần giống Anglo-Saxon. Tôi nghĩ nàng thuộc gốc Âu châu. Khi còn cách chừng bốn thước, tôi mới nhận ra nàng đeo lon trung úy.
Tôi giở mũ, khẽ nghiêng mình tươi cười:
- Chào trung úy. Tôi là đại úy Vũ, đến từ Việt Nam.
Nàng cũng cười, nhẹ nhàng nói:
- Chào đại úy Vũ. Tôi là trung úy Piloti, Kelly Piloti. Nhưng ông có thể gọi tôi là Kelly. Tôi có thể giúp đại úy được việc gì không "
Tôi ngập ngừng:
- Trước hết, tôi phải xin lỗi cô về sự đường đột nầy. Nhưng tôi vào đây mua một số quà cho vợ tôi. Một trong những thứ đó là….
Nghe tôi trình bầy, trung úy Kelly vui vẻ giúp tôi ngay. Khi tôi cho nàng biết nàng cứ chọn cho tôi mấy cái “soutien” cùng cỡ với nàng đang mang, một nét cười hóm hỉnh thoáng hiện trên môi nàng. Chúng tôi trao đổi vài câu chuyện thời tiết, mưa nắng.
Trước khi từ giã, Kelly viết vội số điện thoại trao cho tôi.
- Xin gọi cho tôi, nếu đại úy cần điều gì.
Tôi liếc nhìn bàn tay phải của trung úy Kelly. Chỉ có chiếc nhẫn mặt ngọc xanh đơn giản. Bàn tay trái của nàng vẫn còn trơn, chứng tỏ nàng hãy còn độc thân. 
Lúc ra quầy tính tiền, thấy tôi trả hơn 300 dollars cho các món hàng vừa mua, cô thâu ngân viên nhìn tôi cười thân thiện :
- Chắc đại úy mua những món hàng nầy cho người yêu" Có phải không "
Tôi gật đầu:
- Đúng như vậy. Tôi mua quà tặng cho vợ tôi và cho ba đứa con. Cô bán hàng cám ơn, chúc tôi một ngày vui. Cô chớp chớp mắt rồi nói:
- Vợ và các con ông là những người rất may mắn.!
Trên đường ghé qua bưu điện để gửi quà về cho vợ con, tôi chợt nghĩ đến Kelly, người sĩ quan Mỹ tôi vừa gặp. Tôi tự hỏi nàng cho tôi số điện thoại với muc đích gì" Phải chăng nàng có lòng tốt, muốn giúp đỡ một sĩ quan đồng minh như tôi mới đến Mỹ lần đầu tiên, chưa quen với lối sinh hoạt ở đây" Hay nàng đang cô đơn, muốn bắt đầu một liên hệ mới lạ"
Nhưng rồi ý tưởng tôi trở về với những lời vợ tôi nhắn nhủ tôi trước khi chia tay ở phi trường Tân Sơn Nhất. Tôi nhớ đến ba đứa con nhỏ của tôi. Hai đứa con gái, mấy tuần trước ngày tôi lên đường du học, cứ nhắc đi nhắc lại mỗi bữa cơm chiều:
- “Bố nhớ mua búp bê biết nhắm mắt, mở mắt cho con nhé!”
Thằng con trai tôi cứ lôi tấm hình chiếc xe đồ chơi mầu đỏ, cháu cắt được từ cuốn “catalog” SEARS, chỉ cho tôi xem, nài nỉ “Bố mua cho con chiếc xe giống y như chiếc xe nầy nhé!”
Nhớ đến tất cả những điều đó, tôi thấy bây giờ mình sẽ thật tầm thường, nếu đành lòng, dấn bước vào một phiêu lưu tình cảm, cho dù là nhất thời, với bất cứ một người phụ nữ nào…
Đi bộ qua hai khúc đường ngắn, tôi đã đến trước bưu điện. Bước vào trong, tôi lựa mua một thùng carton nhỏ, đến bên chiếc ghế dài ở góc phòng, đặt thùng lên, lấy những món đồ cần gửi về ngay, cho vào, dán băng keo lại, ghi địa chỉ gia đình tôi. Tôi ôm thùng đứng xếp hàng. Rất may, chỉ chờ có hai người là đến lượt tôi gửi.
Tưởng tượng ra niềm vui thích của vợ con tôi khi nhận được thùng quà, bao nhiêu nỗi mệt nhọc tan biến hết. Cũng biến đi luôn hình ảnh nữ trung úy Mỹ tóc vàng mắt xanh tôi vừa gặp sáng nay. Tôi giữ mảnh giấy ghi số điện thoại của nữ trung úy Kelly suốt thời gian học ở Fort Lee, Virginia. Tôi có đi mua đồ PX đôi ba lần nữa, nhưng không gặp lại nàng. Cho đến khi rời Virginia để đi thụ huấn thêm một khóa nữa ở một căn cứ Hải Quân tại Washington DC, chưa lần nào tôi gọi điện thoại cho nàng.
Là tín hữu, nên mỗi sáng Chúa nhật, tôi thường đi tới nhà thờ Tin Lành để thờ Chúa và nghe giảng. Lúc đầu, chưa quen đường xá nên tôi thường nhờ một người bạn Mỹ đến đón đi nhà thờ, cách chỗ tôi học khoảng 7 dậm, thuộc thị trấn Petersburg. Đây là một thị trấn nhỏ, nằm ở hướng Đông Nam tiểu bang Virginia. Dân số thị trấn này vào khoảng hơn mười ngàn người. Nếp sống ở đây bình lặng; dân chúng rất hiếu khách. Mỗi khi tôi đi bộ ở ngoài đường, gặp bất cứ người nào đi ngược chiều, trông thấy tôi, họ đều tươi cười, nói “Hi !”
Tôi quen biết hai gia đình có con em đang chiến đấu tại Việt Nam, nên lần nào gặp tôi ở nhà thờ, họ cũng vồn vã hỏi thăm về tin tức bên nhà. Họ cũng mời tôi đến nhà dùng bữa ăn tối với họ.
Đặc biệt gia đình Johnson dành cho tôi nhiều cảm tình thân thiết. Ông Johnson khoảng ngoài năm mươi, làm thợ điện. Bà Johnson cũng trạc tuổi ông, ở nhà làm công việc nội trợ. Ông bà có hai người con trai. Người con lớn 22 tuổi đang đóng quân tại Đà Nẵng. Anh lính Thủy Quân Lục Chiến này vừa được lên trung sĩ, sau hai năm chiến đấu ở Việt Nam. Nghe tôi nói tôi đã từng đi công tác tại Đà Nẵng và Huế, ông bà rất thích thú, muốn tôi mô tả cho ông bà nghe hai thành phố này như thế nào, vùng đồng quê bên ngoài thành phố ra sao, và bãi biển China Beach, Mỹ Khê, Sơn Chà có giống như bãi biển ở Hawaii không. Tôi thông cảm được lòng thương nhớ con của ông bà Johnson. Khi tôi còn đóng quân tại các địa điểm quanh tỉnh Long An, cha tôi cũng thường nhìn lên bản đồ địa phương vùng nầy, để xác định vị trí tôi đang ở.

Có lần, sau bữa ăn chiều, ông Johnson lái xe đưa tôi trở về trường. Ông chở tôi dọc theo con sông Appomatox chảy qua thành phố, phía Nam thủ phủ Richmond. Ông kể cho tôi nghe, vùng đất hiền lành này, cách đây hơn một trăm năm, đã chứng kiến những trận đánh đẫm máu giữa hai miền Nam Bắc, trong cuộc Nội Chiến tương tàn dưới thời tổng thống Abraham Lincoln. Chính tại nơi đây, đạo quân hùng mạnh của tướng Ulysses Grant đã vây hãm Petersburg trong suốt mười tháng liền. Khi Nam quân tại Petersburg đầu hàng, thủ phủ Richmond cũng sụp đổ nhanh chóng, dẫn đến việc bại trận nhục nhã của chính quyền ly khai miền Nam. Danh tướng Grant chấp nhận sự đầu hàng của Tổng tư lệnh quân đội miền Nam, Robert Lee, cũng bên bờ sông Appomatox nầy.
Đáp lại lòng hiếu khách của ông bà Johnson, tôi biếu ông bà những món đồ mỹ nghệ Việt Nam tôi đã mang theo, để ông bà trưng bầy ở phòng khách.
Sau những sinh hoạt cuối tuần, chúng tôi trở lại lớp học, cảm thấy tinh thần phấn chấn hơn. Những lúc huấn luyện viên hỏi ai có ý kiến gì mới lạ không, tôi cũng mạnh dạn đưa tay xin phát biểu. Tôi so sánh sự khác biệt trong viêc điều hành mãi ước của Việt Nam và mãi ước Hoa Kỳ. Tôi cũng nói về những kiến thức hữu ích tôi thâu thập được trong khóa huấn luyện sẽ được đem áp dụng để cải tiến ngành mãi ước nơi xứ sở tôi.
Khóa học của tôi là khóa Điều Hành Mãi Ước Quốc Phòng (Defense Procurement Management Course). Tôi học rất chăm chỉ. Tối nào, tôi cũng thức ôn lại bài học trong ngày, và đọc trước bài giảng hôm sau. Tôi chép đi chép lại những từ ngữ chuyên môn, và học thuộc lòng định nghĩa các nguyên tắc đấu thầu. Do đó, mỗi khi làm TEST, tôi thường được điểm tối đa. Các sĩ quan giảng viên đôi lúc khen ngợi tôi trước mặt tất cả lớp học. Tôi vui mừng và hãnh diện; vì ít nhất mình cũng góp phần làm cho sĩ quan các nước đồng minh phải nể nang hai chữ VIỆT NAM. Đây có lẽ là niềm vui lớn nhất của tôi trong những ngày tháng du học tai Hoa Kỳ. Thời gian đi học ở Mỹ cũng là kỷ niệm đáng nhớ nhất trong đời quân ngũ của tôi.. Từ đó về sau, ở trong nước, tôi có được gửi đi tham dự vài khóa huấn luyện chuyên môn; nhưng không bao giờ tôi còn được trải qua những kỷ niệm vui như thời gian ở Mỹ.
Ngoài đại úy Tân ra, tôi cũng có một số bạn sĩ quan đồng minh để thỉnh thoảng nói chuyện gẫu. Cuối tuần, chúng tôi đến PX mua quà cho người thân yêu, lên phố Tầu để thưởng thức món ăn Á Châu. Ăn hoài thức ăn Mỹ củng ngán, và không hợp khẩu vị, nên ra chợ Tầu, tôi thường tím đến mấy tiệm bán hủ tiếu, mì, xá xíu, cơm chiên. Dần dần, tôi mua gạo, trứng, lạp xưởng, rau cải và các thứ gia vị, đem về phòng, tự nấu cơm mỗi buổi tối. Mãi mãi cũng thành quen. Tôi trở thành đầu bếp nhà nghề, nấu nướng và dọn dẹp sạch sẽ gọn gang như bất kỳ bà nội trợ nào. Cứ trong vòng một tiếng sau khi rời lớp học, tôi đã có cơm dẻo, canh nóng ăn rồi.
Chỗ tôi đang theo học là một căn cứ huấn luyện ở xa thị trấn. Khu vực quân sự nầy rất yên tĩnh, và biệt lập với khu cư dân. Cả căn cứ nầy gọi là Fort Lee, mang tên vị tướng Robert Edward Lee, người đã trực tiếp chỉ huy Nam quân, trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ.
Cách Fort Lee khoảng 7 dậm, có một viện bảo tàng chiến tranh rất rộng. Viện bảo tàng được xây dựng bên trên khu đất hơn một trăm năm trước đã là chiến trường đẫm máu giữa hai phe: tướng Grant chỉ huy lực lượng Bắc quân, và tướng Lee, chỉ huy lực lượng miền Nam.
Sau khi cuộc nội chiến kết thúc được bốn năm, tướng Grant trở thành vị tổng thống thứ 18 của Hoa Kỳ. Ông trúng cử thêm một nhiệm kỳ nữa, tổng cộng là tám năm trên ngôi vị quyền lực cao nhất.
Chỉ trong vòng một trăm năm, người ta đã biến khu vực chiến trường thành một viện bảo tàng chiến tranh. Du khách đến thăm mỗi phòng trưng bầy chỉ cần bấm vào nút điiện. Máy tự động sẽ chiếu hình và tường thuật rành rẽ các trận đánh. Các dẫy nhà xung quanh trưng bầy các loại vũ khí đạn dược, gươm giáo và quân phục thời nội chiến. Du khách có thể đi tản bộ trên các lối mòn dưới những tàn là xum xuê của những cây cổ thụ tới gian hàng bán đồ kỷ niệm. Tại gian hàng nầy, người ta bán áo thun in hình cờ của quân đội miền Nam hoặc các địa danh ghi dấu những trận đánh nổi tiếng. Họ cũng bán những bưu ảnh chụp những làng quê, những thị trấn lừng danh trong cuộc Nội Chiến. Ngoài ra, còn có những khẩu súng lục, súng trường giả, mô phỏng theo kích thước các vũ khí quân đội hai bên đã dùng hơn một trăm năm trước.
Có một lần, Đại tá Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm huấn luyện mời đại úy Tân và tôi tới tư gia dự tiệc. Ông đích thân dùng xe nhà đến đón chúng tôi lúc 5 giờ chiều. Xe của ông là chiếc station wagon Ford Fairlane đời 1968. Tuy đã dùng hai năm rồi, nhờ ông săn sóc cẩn thận, chiếc xe Ford tám máy nầy còn rất tôt. Băng trên rộng, và cần sang số tự động đặt ở ngay bánh lái, nên chúng tôi được mời ngồi phía trên với ông luôn. Đại tá Mc Wain chở chúng tôi dọc sông Appomatox. Những rặng liễu mọc ven sông rủ xuống thật đẹp. Mặt sông êm ả. Trẻ con đùa giỡn, chạy nhảy trên những thảm cỏ xanh ven sông, trong khi cha mẹ chúng ngồi trên những tấm vải sặc sỡ trải dưới bóng cây, với nước uống và thức ăn bầy sẵn.
Đại tá Mc Wain nói :
- Pinic là sinh hoạt rất phổ biến trong các gia đình người Mỹ chúng tôi. Ở Việt Nam các ông có sinh hoạt đó không"
Tôi đáp :
- Thưa đại tá, gia đình tôi ở thủ đô Sàigon. Chỗ duy nhất trong thành phố đủ rộng để gia đình đi pinic là Thảo Cầm Viên.
Đại úy Tân tiếp lời tôi:
- Ngoài ra, nếu muốn thoải mái hơn, chúng tôi có thể đi ra ngoại ô, khu Thanh Đa, hay đi
về phía Thủ Đức, xa lộ Biên Hòa. Tại những khu vực nầy, có những khoảng đất để pinic được. Nhà đại tá Mc Wain là một biệt thự xinh xắn, nằm cách trường chúng tôi khoảng tám hay chín dậm. Xe vừa vào đến cổng, chúng tôi đã thấy bà Mc Wain đứng trước cửa chính. Là một phụ nữ khoảng trên dưới năm mươi, bà ăn mặc giản dị, trang điểm vừa phải. Đại tá giới thiệu hai chúng tôi. Bà đưa tay bắt, và niềm nở mời chúng tôi vào bên trong. Đại tá tiếp chúng tôi ở phòng khách trong lúc bà đi vào trong. Không đầy mười lăm phút sau, bà bước ra, tươi cười: - - Mời quí vị vào. Bữa ăn tối đã sẵn sàng. Chúng tôi cám ơn bà, và theo sau đại tá Mc Wain bước vào phòng ăn. Đại tá cho chúng tôi biết thức ăn đãi chúng tôi tối nay do chính bà vợ ông nấu nướng. Ông bà đãi chúng tôi một bữa cơm thịnh soạn gồm có gà đút lò, thịt bò hầm, khoai tây nghiền, khoai chiên và các thứ rau đậu. Ông khui chai rượu vang đỏ, rót vào bốn ly pha lê có chân, trịnh trọng mời mọi người cùng ông nâng ly, ngoài chúng tôi ra, tôi hỏi :
- Ông bà được bao nhiêu người con"
Đại tá Mc Wain đáp:
- Chúng tôi được hai cháu, một trai, một gái. Cả hai đều đang theo học đại học ở ngoài tiểu bang. Lâu lâu mới về thăm chúng tôi một lần.
Sau bữa ăn, chúng tôi trở ra phòng khách uống cà phê. Mãi tới gần 9 giờ tối, chúng tôi mới đứng dậy, xin phép trở về cư xá. Trước khi từ giã, tôi tặng ông bà bức tranh sơn mài mô tả cảnh đồng quê Việt Nam thời thái bình. Đại tá Mc Wain từng có thời gian phục vụ ở Việt Nam. Lúc đó, ông làm cố vấn tại vùng 4 chiến thuật. Khi về nước, ông mua một số sản phẩm tiểu công nghệ ở miền Tây. Những món nầy đang được trưng bầy trong tủ kính tại phòng khách. Căn nhà ông bà đang sống là một biệt thự hạng trung. Vườn nhà ông bà, cả trước lẫn sau đều có những thảm cỏ xanh, cắt xén rất đẹp mắt. Điểm đặc biệt mà tôi ghi nhận, dù là một Chỉ huy trưởng của một căn cứ rộng lớn, ông không sử dụng một người lính nào vào việc tư cả. Đó là một “điểm son” mà tôi kính phục đại tá Mc wain.
. . .

Và rồi ngày tháng trôi qua quá mau. Mới ngày nào vừa nhập học mà nay đã tới ngày mãn khóa, sau kỳ thi “Final”.
Buổi lễ mãn khóa diễn ra rất trang trọng tại hội trường của Trung Tâm. Các sĩ quan đồng minh trong quân phục đại lễ “mùa đông” chỉnh tề đứng thẳng hàng ở phía trước, gần sát sân khấu. Huấn luyện viên đọc tên, từng khóa sinh bước lên nhận “Diploma” do đại tá Chỉ Huy Trưởng đích thân trao cho. Mỗi sĩ quan tốt nghiệp đều được chụp hình lưu niệm với đại tá Mc Wain và các sĩ quan giảng viên. Sau đó chúng tôi dự dạ tiệc giã từ Farewell Party, do nhà trường khoản đãi. Các sĩ quan đồng minh từ các quốc gia Tự do xiết tay nhau, nói lời giã biệt, hy vọng có dịp nào gặp lại.
Ngày hôm sau, chúng tôi được xe của Trung Tâm Điều Hành Tiếp Vận chở lên Bộ Chỉ Huy Tiếp Liệu Hải Quân Hoa Kỳ (Headquarters Naval Material Command) để theo học một khóa nữa.
Bộ Chỉ Huy Tiếp Liệu Hải Quân nằm sát bên bờ sông Potomac thuộc Washington DC, tiểu bang Maryland. Ở căn cứ nầy, tôi thấy các tầu của hải quân Hoa Kỳ qua lại và cập bến rất nhộn nhịp. Các sĩ quan Hải quân trong đại lễ mẩu trắng, với cuống huy chương đủ mầu trông thật đẹp mắt.
Chúng tôi trình diện và được biết khóa Phân Tích Giá cả Quốc Phòng và Kỹ Thuật Thương Lượng (Defense Cost and Price Analysis and Negotiation Technique Course) sẽ khai giảng vào ngày hôm sau. Tại Bộ Chỉ Huy Tiếp Liệu Hải Quân, không có phòng cho sĩ quan đồng minh trú ngụ. Vị sĩ quan liên lạc đưa cho chúng tôi tờ giấy ghi địa chỉ mấy khách sạn gần nhất. Sau khi điện thoại liên lạc, chúng tôi thuê được phòng tại một khách sạn giá cả tương đối tốt, nằm cách Bộ Chỉ Huy Tiếp Liệu Hải Quân khoảng 8 dậm. Phương tiện di chuyển là xe bus, nên rất thuận tiện.
Thường thường, chúng tôi thức dậy từ 6 giờ sáng, dùng điểm tâm ngay tại khách sạn; rồi đón xe bus ngay góc đường đi tới trường. Thời gian di chuyển mất khoảng 45 phút Chúng tôi tới trước giờ học, nên có thì giờ trò chuyện, kết thân với các bạn đồng khóa, đủ mọi quốc tịch.
Cũng giống như khóa học ở Fort Lee, Virginia, trong buổi học đầu tiên, chúng tôi tự giới thiệu họ tên, cấp bậc và tên quốc gia của mình. Huấn luyện viên thường là Sĩ quan Hải quân; nhưng cũng có vài huấn luyện viên dân sự nữa. Các bài vở thường được phát cho khóa sinh mang về đọc trước, để khi huấn luyện viên giảng bài; khóa sinh có thể thâu thập mau hơn. Xen kẽ các giờ học là giờ ra chơi. Các khóa sinh được mời dùng cà phê và bánh ngọt đủ loại. Chúng tôi thường dùng bữa ngay tại “cafeteria” của Bộ Chỉ Huy rồi tiếp tục học lớp buổi chiều. Chúng tôi học 5 ngày một tuần nên vào dịp “weekend”, cũng có nhiều sinh hoạt và nơi chốn để tiêu khiển và du ngoạn…
Một kỷ niệm vui trong thời gian cư ngụ tại Washington DC, là buổi đi thăm Tòa Bạch Ốc. Khách sạn nơi chúng tôi cư ngụ chỉ cách Pennsylvania Blvd, nơi có Tòa Bạch Ốc chừng hơn 1 dậm. Vào ngày cuối tuần, dân chúng Hoa Kỳ cũng như du khách được phép vào thăm Tòa Bạch Cung. Tôi rất vui được đi thăm với đám đông này sau khi đã đi qua nhiều trạm kiểm soát an ninh, vào tận bên trong, thăm nơi sinh sống và nơi làm việc của vị Nguyên thủ Hoa Kỳ.. Thật là một điều vui thích khi được nhìn tận mắt chỗ ăn, chỗ ở và nhất là văn phòng hình bầu dục, nơi Tổng thống làm việc. Tôi nghĩ đây là một quốc gia tự do nên mọi sinh hoạt của Tổng thống, người dân Hoa Kỳ được biết tường tận.
Như đã nói ở phần trên, đại úy Tân và tôi thuê chung một phòng tại một khách sạn. Phòng nầy có hai giường riêng biệt, không có bức tường ngăn vách nên đôi khi cũng hơi bất tiện trong việc tiếp khách. Tôi còn nhớ một kỷ niệm vui vui, khó quên trong thời gian du học tại Mỹ. Đại úy Tân còn độc thân, khỏe mạnh, bảnh trai, lại hào hoa phong nhã nên có nhiều “kiều nữ” da trắng mắt xanh để ý. Tiền lương lãnh ra, anh thường dùng vào việc mời các em đi du hý, tiệc tùng vào dịp cuối tuần. Anh có một số bạn gái Mỹ; nhưng thân thiết nhất vẫn là em Lisa. Có lần Tân năn nỉ quá, tôi phải “tị nạn” trong một rạp chiếu bóng để nhường phòng cho chàng. Còn nhớ, Washington DC vào giữa tháng 12, trời mau tối và có gió lạnh buốt. Hôm đó rạp chiếu phim về cuộc đời đại tướng Patton, một danh tướng của Mỹ thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Thế chiến, người đã chiến thắng quân đội Đức Quốc Xã tại chiến trường Âu Châu. Phim này tương đối có giá trị, nên tôi quyết định xem kỹ, ngồi cho đến hết phim.
Buổi sáng hôm sau, lại có trận bão tuyết kèm theo những cơn gió lốc thổi rất mạnh. Tuyết vẫn rơi đều cao tới hai tấc. Dọc đường, có xe của sở công chánh đi cào tuyết; tôi cũng thấy mấy cây trồng ven đường bị gió thổi mạnh làm trốc gốc, và kẹt xe cộ trên một vài đoạn đường. Nhiều trường học cho học sinh nghỉ vì sợ bão tuyết đến bất chợt. Tuy có bị kẹt một vài đoạn đường, nhưng cuối cùng xe bus vẫn đưa chúng tôi đến nơi. Từ trạm xe bus đi tới trường, chúng tôi phải đi bộ khoảng 100 mét. Căn cứ hải quân được xây cất sát bờ sông Potomac nên gió mạnh từ bờ sông thổi như muốn xô chúng tôi xuống bờ sông. Những lúc gió thổi quá mạnh như thế, chúng tôi dừng lại, tay vịn cột điện, chờ gió dịu đi mới tiếp tục bước tới. Chúng tôi tới trễ khoảng một tiếng. Huấn luyện viên cho biết hôm nào mưa bão lớn như bữa nay, chúng tôi có thể ở lại phòng của khách sạn và điện thoại cho trường biết, thì không sao cả.
Hôm nay, chúng tôi học tới bài Kỹ thuật thương lượng giá cả. Huấn luyện viên cho chúng tôi thảo luận về đề tài nầy, và cho coi vài khúc phim dẫn giải về cách thức trước và sau khi thương lượng giá cả. Sau mỗi bài học, đều có phần thi cuối tuần….
Đêm Giáng sinh năm 1970, tại thủ đô Washington DC, tôi được người bạn cùng lớp là thiếu tá hải quân Glen Williams mời tới nhà anh dùng cơm chiều. Sau đó, anh chi đưa tôi đi dự lễ nhà thờ, cách nhà anh khoảng 7 dậm. Ngoài trời tuyết vẫn rơi, nhưng bên trong nhà thờ, tôi cảm thấy ấm cúng lạ thường.
Bên trên, phía trước tòa giảng, những chậu cây “poinsettia”, cánh đỏ nhụy vàng rực rỡ, nổi bật giữa mầu lá xanh. Tấm màn nhung xanh đậm phía sau gắn giòng chữ bạc JOY TO THE WORLD. Tôi lắng lòng nghe những bản hợp ca tưng bừng bầy tỏ lòng hân hoan của những người con Chúa muốn chia sẻ niềm vui lớn lao vì Ngôi Hai đã xuống trần cứu vớt thế gian. Tôi để trọn tâm hồn hướng về Chúa, trong không khí trang nghiêm của giáo đường. Tôi cảm nhận tình thương bao la của Cứu Chúa, khi Ngài bằng lòng từ bỏ địa vị cao sang trên Thiên Quốc, giáng trần để cứu vớt thế gian.
Sau khi tan lễ, các tín hữu trong nhà thờ xuống basement để cùng nhau dự tiệc Giáng sinh, theo hình thức “potluck”. Thiếu tá Glen giới thiệu tôi với vị mục sư và các tín hữu. Ai nấy đều tỏ ra niềm nở và thân thiện. Đây là lễ Giáng sinh đầu tiên tôi sống xa gia đình. Tôi rơm rớm nước mắt khi nhìn thấy vợ chồng con cái người ta vui vẻ bên nhau. Tôi nhớ vợ con tôi thật nhiều, và mong cho chóng ngày mãn khóa học…
Thời gian ở Washington DC, một chiều cuối tuần, tôi cũng có dịp đi thăm sở thú. Sở thú tại đây rất lớn và sạch sẽ. Các con thú được cho ăn uống đầy đủ, và được các bác sĩ thú y chăm sóc, nên con nào con nấy đều khỏe mạnh. Có nhiều giống vật lạ, các loài chim quý thuộc vùng nhiệt đới, mà tôi chưa từng thấy ở sở thú Saigon. Điểm đặc biệt mà tôi chú ý tới thủ đô Hoa Kỳ, là phần đông dân cư thuộc thành phần khá giả thường sống ở ngoại ô. Tại trung tâm thủ đô, thường chỉ có những khu phố thương mại, dinh thự, đền đài, các tòa đại sứ, các cơ sở tài chánh mà thôi…
Thấm thoát, đã tới ngày mãn khóa. Hải quân đại tá R.G. Freeman chủ tọa buổi lễ tốt nghiệp. Ông đích thân trao chứng chỉ mãn khóa cho từng sĩ quan; và sau đó, đãi tất cả sĩ quan đồng minh một bữa tiệc trước khi chia tay. Chúng tôi nhận đầy đủ giấy tờ, kèm theo vé máy bay cùng 7 ngày đi đường có phụ cấp. Từ Bộ Chỉ Huy Tiếp Liệu Hải Quân tại Washington DC về Travis Air Force Base, California, khóa sinh có thể chọn phương tiện đi bằng xe lửa, xe bus hay máy bay. Vì muốn đi qua nhiều tiểu bang, nên chúng tôi chọn đi bằng xe bus Greyhound có gắn máy lạnh. Xe chạy suốt ngày đêm qua nhiều trạm. Chúng tôi có dịp ngắm xem nhiều phong cảnh đẹp ở nước Mỹ. Khoảng 5 ngày và 5 đêm, xe bus chạy liên tục, chúng tôi đã tới San Francisco để chuẩn bị lên đường về Việt Nam. Đây là kỷ niệm khó quên trong đời quân ngũ của tôi.
Vũ Ngọc Bích

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 833,337,466