Hôm nay,  

Lạc Loài

17/06/200200:00:00(Xem: 181047)
Người viết: Nguyễn Hoàng Ngôn
Bài tham dự số: 2-563-vb50606
Tác giả Nguyễn Hoàng Ngôn sinh tại Saigon năm 1958, hiện định cư tại Glendale, AZ. Đây là bài Viết Về Nước Mỹ thứ hai của ông, một truyện kể hụt hẫng về gia đình tại Mỹ.
+++
Năm hai mươi tuổi tôi rời bỏ Việt nam ra đi tìm tự do, bỏ lại phía sau những gì yêu mến.
Xa quê hương, xa gia đình, xa tình yêu vừa chớm nở, tôi lạc lõng giữa ngã ba cuộc đời trên xứ Mỹ. Tôi như đứa bé chập chững bước vào đời. Tập ăn, tập nói, tập đi, tập ở. Lúc còn độc thân thấy bạn bè có gia đình, tôi thèm thuồng có được một mái ấm gia đình như mọi người. Đến khi lập gia đình, tôi muốn trở lại kiếp độc thân thì đã muộn. Tôi không còn cái hứng thú rong chơi, mất đi tính trẻ trung, săn đuổi tình nhân, lang thang ngoài phố.
Vốn có số đào hoa tôi gặp người bạn gái làm cùng hãng. Quen nhau vài tháng chúng tôi dọn về ở chung. Bên nhau vài tuần tôi bị bà má cô bạn bắt tôi phải cưới. Bà không đồng ý chúng tôi sống vụng trộm bên nhau. Biết rằng tôi với cô không đồng tín ngưỡng, tôi nghĩ theo lối xưa “xuất giá tòng phu”, lập gia đình đương nhiên vợ sẽ phải
theo đạo của chồng. Nào dè, thuyết “tòng phu” này hoàn toàn
không phù hợp ở Mỹ. Ở đây người đàn bà đòi hỏi nhiều quyền lợi hơn đàn ông. Cưới xong vợ tôi tiếp tục theo đạo của cô làm tôi tức giận muốn nổ tung cả lồng ngực.
Một hôm tôi không kềøm được cơn giận, tôi tát cho vợ tôi một bạt tai. Cảnh sát rầm rộ ùa tới nhà. Tôi bị bắt về bót giam một đêm. Khi ra tòa, ông luật sư của tôi bảo tôi ngu và ngoan cố, vì tôi dám trả lời trước mặt cảnh sát là "OK! I slap her face so what". Ông nói: “Sống ở Mỹ mà không biết nói "I dont know" tức là không biết trốn thuế. Từ đó tôi học thêm bài học kinh nghiệm là phải biết nói dối.
Sau vụ đó hạnh phúc gia đình tôi từ từ xuống vực thẳm. Tôi và vợ tôi ít tâm sự và gần nhau. Thiếu vợ tôi thì tôi buồn bả biếng ăn, gần vợ thì tôi lại bực mình như đang bị ràng buộc. Muốn ly dị thì lại thương hại cho đứa bé còn nằm trong bụng mẹ. Nhiều lần tôi muốn đi tìm tình yêu khác thì con tim tôi bỗng trở nên cằn cỗi già nua chán đời. Tim tôi như có lỗ hổng không giữ được tình yêu nào khác.

Dần dà, tôi an phận cho đời tôi, sống những ngày buồn tẻ, mỗi chiều tôi vẫn thường ra sau hè nhìn về quê mẹ buồn đau chín chiều. Tôi cô đơn không bạn bè, bạn bè tôi đến chơi chỉ làm vợ tôi khó chịu, không hiểu chúng tôi nói gì. Cuối cùng bạn bè tôi không buồn đến thăm.
Một hôm cha, mẹ, chị, em tôi được sang Mỹ đoàn tụ. Tôi vui mừng như tái sanh lần thứ hai, gặp lại nhau vui buồn không tả, nhưng rồi vài tuần sau tình cảm thuở xưa như khác lạ. Tại tôi thay đổi mà tôi không biết, hay tại gia đình tôi thay đổi. Vui chưa được bao lâu thì tan rã. Các em tôi cho rằng tôi không như ngày xưa, bất hiếu, thiếu tình thương, sợ vợ, chỉ biết sống cho mình, không lo lắng cho mọi người. Tôi sống bên nhà sang cửa rộng, bỏ cha mẹ, chị và các em sống trong apartment xấu xí cũ kỹ rẻ tiền.
Những gì tôi có chỉ toàn là nợ, càng xe xua càng khổ thân lợi ích gì. Tôi muốn gia đình tôi có lối sống căn bản phù hợp với mình trong lúc đầu. Muốn nói mà nói không nên lời. Gia đình tôi quan niệm cuộc sống ở Mỹ theo tiếng đồn chung. Tôi lại là nhận vật bị đem ra so sánh và phê bình. Lòng tôi tan nát, buồn bả muốn bỏ đi thật xa, rồi lại thương mẹ già. Tuy ở gần nhiều lúc muốn đến thăm mẹ, giận và tự ái vì bị mấy thằng em coi rẻ.
Tôi thương mẹ tôi thật nhiều. Nhưng đời sống ở đây có sự riêng tư và biệt lập, khó mà sống chung nhà như ở Việt Nam.
Một hôm ngày sinh nhật mẹ tôi. Tôi ôm mẹ vào lòng, thân mẹ gầy gò nhỏ bé. Nhớ thuở nào còn bé, mẹ vẫn thường ôm tôi vào lòng, mỗi chiều tan trường về. Nhiều lần tôi mê chơi về muộn, bị mẹ đánh đòn. Hình ảnh đó bây giờ đổi ngược. Bàn tay mẹ quyền thế ngày nào, bây giờ run rẩy xụi lơ.
Tôi thèm được mẹ khẻ tay mỗi lần chơi dơ, thèm được mẹ la rầy mỗi lần làm quấy. Mẹ tôi không còn đủ sức cầm thước khẻ, cũng không la rầy. Mỗi lần nhìn mắt mẹ nghẹn ngào buồn bã, tôi biết mẹ không vừa ý, nhưng không hiểu lý do. Tôi buồn bã và đau đớn hơn muôn ngàn khẻ tay thuở bé.
Hai mươi mấy năm sống bên cuộc tình hờ, một hôm vợ tôi đến gần âu yếm, tôi ngạc nhiên không hiểu ý, cô nói:
"Anh, em muốn có thêm đứa con nữa."
Tôi mở mắt to nhìn vợ nghe nghèn nghẹn ở cổ họng. Mười tám năm tù treo gần lấy được tự do thì cô lại bắt tôi ký tiếp hiệp định mười tám năm bên nhau "Sống vì con".
Nguyễn Hoàng Ngôn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 868,816,726
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm thứ 20. Bà tên thật Trần Ngọc Ánh sinh 1955, sau khi đi tù gần 11 năm về tội chống Cộng Sản từ đầu 1979 đến cuối 1989, đã tốt nghiệp Đại học năm 1995 ngành Quản trị kinh doanh tại VN. Sang Mỹ định cư theo diện kết hôn năm 2007, hiện đang sống tại thành phố Victorville, miền Nam California. Nghề nghiệp nội trợ. Sau đây, thêm bài viết đầu năm mới của bà.
Chúc Mừng Năm Mới Kỷ Hợi 2019. Viết Về Nước Mỹ bắt đầu năm Canh Thìn 2000. Từ Thìn tới Hợi, vừa đúng 20 năm. Ngày đầu năm Hợi, xin mời đọc bài Tết của Lê Nguyễn Hằng. Tác giả là một cây bút nữ kỳ cựu tham gia Viết Về Nước Mỹ từ nhiều năm qua. Năm 2017, với bài viết “Ba Người Đàn Bà Tuổi Dậu”, bà nhận giải Vinh Danh Viết Về Nước Mỹ. Bài sau đây trích từ báo xuân Tết Kỷ Hợi 2019.
Tác giả định cư tại Pháp nhưng thường lui tới với nước Mỹ, tham gia Viết Về Nước Mỹ từ tháng Ba 2010. Họp mặt giải thưởng năm 2011, bà đã bay từ Paris sang California để nhận giải Vinh Danh Tác Giả -thường được gọi đùa là giải Á Hậu. Mừng Tết Kỷ Hợi đang tới, mời đọc chuyện tình tất niên của tuổi hạc.
Tác giả lần đầu tiết về nước Mỹ từ tháng 11, với bài “Tình người hoa nở”, tháng 12, “Mùa kỷ niệm” và “Chị em trung học Nữ Thành Nội.” Cô tên thật là Nguyễn thị Minh Thuý sinh năm 1955. Qua Mỹ năm 1985, hiện là cư dân thành phố Hayward thuộc Bắc Cali và còn đi làm. Sau đây là bài viết thứ ba của cô.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Bài mới của tác giả kể về khóa Thiền Vipassanna 10 ngày mà bà đã tham dự. Bài trích từ báo xuân Việt Báo Tết Kỷ Hợi, đang phát hành khắp nơi.
Tác giả tên thật Quách Ngọc Ánh, sinh năm 1954, hiện là cư dân Garden Grove, CA. Trước 75 học Sư phạm Sai gon, một thời dạy học tại miền Trung Việt Nam, định cư tại Hoa kỳ theo diện H.O. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà từ Tháng Sáu 2013 là một hồi ức xúc động về việc đi tìm người thân chết khi vượt biển. Sau đây thêm một bài viết mới.
Tác giả tên thật là Trần Văn Hai, hiện đã là cư dân hưu trí tại Nashville, TN. Thư ông viết: Tôi thường xuyên theo dõi và đọc bài viết trên trang Việt báo online. Đây là bài viết tôi gởi về cho tòa soạn đầu tiên, mong nhận được sự góp ý. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của ông là bước khởi hành tốt: gọn nhẹ, giản dị và thành thực. Mong tác giả tiếp tục.
Tác giả quê gốc Kinh 5 Rạch Giá, hiện là cư dân Seattle, dự Viết Về Nước Mỹ từ năm 2010. Ba bài đã viết là chuyện 30 năm của gia đình bà: Vượt biển tới đảo tị nạn, sau 7 năm chờ đợi, bị buộc phải hồi hương. Nhờ chương trình ROV, gia đình vẫn tới được nước Mỹ, và với sức phấn đấu chung, tất cả đã đứng vững.
Tác giả tên thật Trịnh Thị Đông, hiện là cư dân Arkansas. Bà sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Tới Mỹ vào tháng 8, 1985, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016 và đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Sang năm 2018, Dong Trinh có thêm giải Vinh Danh Tác Giả, thường được gọi đùa là giải Á hậu. Sau đây, thêm một bài mới của tác giả.
Tác giả cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà là chủ tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải Danh Dự năm thứ mười chín, 2018. Bài viết sau đây được trích từ báo xuân Việt Báo Tết Kỷ Hợi 2019, hiện đang phát hành khắp nơi.
Nhạc sĩ Cung Tiến