Hôm nay,  

Tưởng Nhớ 30 Tháng Tư 1975: Cuộc Trùng Phùng Kỳ Diệu

01/05/200200:00:00(Xem: 224039)

Người viết: Chánh Minh
Bài tham dự số: 2-524-vb80421
Nhân dịp kỷ niệm 30-4, Giải Thưởng Viết Về Nước Mỹ đang chờ nhận các bài viết về những hồi tưởng, kinh nghiệm có từ tháng Tư 1975. Trong khi chờ thêm bài mới, xin trân trọng giới tgh iệu loạt bài 30-4 của Chánh Minh. Tác giả là một cựu sĩ quan Hải Quân VNCH hiện định cư tại Nam California. Tháng Tư 1975, ông đảm nhiệm công tác tại Phú Quốc và đã đích thân sống với cảnh di tản tang thương trên biển. Truyện ký của ông mang tên “Cuộc Trùng Phùng Kỳ Diệu” được đăng 4 kỳ, với tựa đề do Ban Sơ Tuyển đặt theo nội dung câu chuyện.
Sáng 28 tháng Tư, Mạnh phải bay từ Saigon về nhiệm sở ở Phú Quốc. Khi vào phi trường Tân Sơn Nhất, ngay hai bên cổng chính, đã thấy cảnh ngổn ngang,
thê thảm. Nhiều xe hơi dân sự do những người chạy bỏ lại từ mấy ngày trước đã bị tháo mất từng bộ phận như bánh xe, cánh cửa, radio… còn chăng chỉ là một bộ xương xe trông thật tang thương! Vào đến phòng đợi của phi trường, thấy gương mặt từng hành khách, coi còn thảm não hơn. Ai nấy ngơ ngác, buồn rầu, giống như đang đưa một người thân sang bên kia thế giới.
Rời Tân Sơn Nhất, chiếc máy bay 4 động cơ DC-4 của hãng Hàng Không Việt Nam vừa đáp xuống phi trường An Thới lúc 12 giờ trưa ngày 28/4/75, thì tất cả hành khách đều được thông báo phi trường Tân Sơn Nhất mới bị oanh kích trước đó mấy phút bởi 2 phi cơ phản lực của Không đoàn 1 từ Đà Nẵng. Phi trường đang ở trong tình trạng thiết quân luật 24/24, có nghĩa rằng không một máy bay dân sự nào được đáp xuống và cất cánh tại phi trường Tân Sơn Nhất cho đến khi có lệnh mới. Viên phi công trưởng Đại Hàn đi bên cạnh Mạnh, nét mặt lo lắng, hỏi chàng có can gì không. Mạnh trả lời an ủi ông ta, có lẽ tạm thời thiết quân luật nhưng rồi sẽ trở lại bình thường và ông ta có thể bay trở về lại Saigon. Tuy nói với ông ta như thế, nhưng thật sự chàng đã linh cảm Saigon đang ở vào giờ thứ 25, chưa chắc mình còn có cơ hội trở lại.
Có lẽ số Mạnh được sao quả tạ chiếu mạng, nên chẳng bao giờ được thảnh thơi, xuông xẻ.
Trước đó một tháng, ngày 30/3/75 khi Nha Trang bỏ trống để chờ CS vào, chàng và bà xã chạy trối chết từ Nha Trang vào được Saigon, tưởng từ nay chắc được yên thân đôi chút, nhưng chàng đã lầm. Đang học lớp tham mưu cao cấp ở TTHL/BT/SG lè phè, thì bỗng nhiên đầu tháng 4/75, đại tá Trọng lúc đó là chỉ huy trưởng TTHL/BT/SG cho biết tất cả lớp học sẽ được biệt phái sang Bộ Xã Hội để làm công tác cứu trợ ở vùng 4/ZH do đại tá Thanh làm Tư lệnh.
Tưởng cũng nên nhắc lại vào thời điểm đó các tỉnh ở miền Trung từ Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Nha Trang, Cam Ranh cho đến Phan Rang, Phan Thiết đều đã bỏ ngõ cho VC đến tiếp thu, theo chiến thuật "đầu to đít teo" của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, chứ chẳng có đánh đấm gì. Do đó hàng chục ngàn người đã đổ về Saigon lánh nạn, vì có tin đồn rằng TT Thiệu sẽ bỏ phần đất cằn cỗi miền Trung từ vỉ tuyến 17 cho đến Phan Thiết, còn tất cả quân dân miền Nam sẽ cố thủ cho đến giọt máu cuối cùng từ Phan Thiết trở vào, mà Phan Thiết xem như vùng trái độn. Chính phủ Trần Thiện Khiêm sợ rằng số quân di tản từ miền Trung đổ về mỗi ngày quá đông không thể kiểm soát được về cả hai phương diện quân sự và dân sinh, nên đã ra lệnh cho Phó thủ tướng bộ xả hội và khẩn hoang lập ấp, Bác Sĩ Phan Quang Đán, lo việc định cư cho những người này ở quận An Thới trên đảo Phú Quốc.
Đợt đầu tiên nhận được công vụ lệnh của Bộ Xã hội gồm 7 sĩ quan trong đó có Mạnh và Trung tá Bích. Ngày 7/4/75 Mạnh lại khăn gói quả mướp trình diện Tư lệnh V4/ZH bằng phương tiện nhanh nhất là Hàng Không Việt Nam. Ở đây Mạnh gặp được thêm hai người bạn đồng khóa là Quế và Tấn, Quế giữ chức vụ Trưởng kho các phẩm vật cứu trợ, còn Mạnh và Tấn là những cán bộ cứu trợ.
Ban ngày họ có bổn phận giúp đỡ các đồng bào ở trại tỵ nạn cách Bộ chỉ huy độ vài cây số, ban đêm về họp với Tư lệnh V4/ZH, Tư lệnh phó, Căn cứ trưởng V4/ZH kiêm Trại trưởng trại tỵ nạn, và một số đại diện Bộ binh thuộc chi khu Phú Quốc, để nêu những nhu cầu, trở ngại hoặc nhận chỉ thị mới từ Tư lệnh.
Cái khó khăn nhất của họ là phải dùng ba tấc lưỡi để an ủi và giải thích cho đồng bào yên tâm tạm cư ở đây, sau này có dịp sẽ trở lại Saigon, mặc dầu chính sách của chính phủ là muốn định cư tất cả mấy chục ngàn dân tỵ nạn ở trên phần đất biệt lập này. Đa số đồng bào tỵ nạn không muốn ở đây, dầu là tạm thời đi nữa vì thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần, trong lúc ở Saigon họ có bà con có thể giúp đỡ dễ dàng.
Mỗi tuần căn cứ tỵ nạn An Thới đón nhận hàng ngàn người từ miền Trung đổ về do các chiến hạm của HQVN hay các thương thuyền Hoa Kỳ chở đến. Có những cảnh "tiền trãm hậu tấu" ngay trên bãi biển An Thới do Tư lệnh V4/ZH ra lệnh xử tử các tội nhân bất kỳ nam hay nữ, vì bị chỉ điểm là ăn cướp hay hãm hiếp đàn bà trên tàu. Trên mình các vị này dấu đầy vàng bạc châu báu, đây là bằng chứng hùng hồn để họ bị bắn ngay mà không cần được xét xử.
Có hôm vị tư lệnh đã cho các nhân viên thấy trong buổi họp một số tài vật như vàng, dollars và đồng hồ đắc tiền tịch thu từ các tử tội này đã và nói như sau: "Đây là những vật hôi tanh mùi máu, tôi sẽ làm biên bản và phúc trình về cho Bộ tư lệnh để giải quyết".
Nghe thì nghe vậy, chứ không một ai trong buổi họp có ý kiến gì cả kể cả các sĩ quan cao cấp trong bộ tham mưu.
Mỗi tuần, hàng chục chuyến bay C130 chở phẩm vật cứu trợ từ các nước Đồng minh như Mỹ, Pháp, Úc và anh đáp xuống phi trường An Thới rầm rộ, do đó Quế hầu như bận rộn suốt ngày. Mạnh và các bạn cùng khóa chỉ gặp mặt nhau trong các buổi họp ban tối hay trong trại tỵ nạn, chứ chưa bao giờ có thì giờ ngồi nhậu nhẹt lai rai như hồi còn ở Saigon.
Đời sống ban ngày ở trại tỵ nạn chẳng có gì vui ngoài cái nóng, bụi bặm và ồn ào. Mỗi ngày họ phải nghe những lời than vãn và khiếu nại của đồng bào xin được trở về đất liền để đoàn tụ với bà con riết rồi cũng quen.
Đêm về chẳng có gì để giải trí, ngay cả cái radio để nghe tin tức hàng ngày cũng không có, bạn bè mỗi đứa ở một nơi, thành thử chẳng có ai để tâm sự. Mạnh cùng với trung tá Bích ở chung một trailer gần bộ chỉ huy, tất cả vợ con của họ đều ở Saigon, nên họ thường đi ngủ sớm để ngày mai còn đủ sức lên trại tỵ nạn. Trung tá Bích cũng người Huế như Mạnh, ăn nói nhỏ nhẹ, tánh tình hiền từ, nên rất hợp với Mạnh. Chàng tự nghĩ mình vẫn còn may mắn nên mới có được một người bạn tốt ở cùng phòng trong thời gian công tác xa gia đình không biết ngày nào mới được về thăm vợ con đây.
Sau gần một tháng biệt phái làm công tác dân sự vụ ở An Thới, Mạnh chẳng nhận được thư từ gì của gia đình ở Saigon cũng như chẳng theo dõi tin tức chiến sự hàng ngày. Chàng thật sự lo lắng cho sự an nguy của vợ con, nên chiều hôm đó Mạnh về hơi sớm và vào phòng truyền tin của Bộ chỉ huy V4/ZH xin liên lạc thẳng về V3/ZH để hỏi thăm tin tức tình hình Saigon. Mạnh được người anh cho biết tình hình càng ngày càng tồi tệ không thể lường được, số người bỏ nước ra đi bằng đường tòa Đại sứ Mỹ càng lúc càng đông và anh khuyên vợ con Mạnh nên ra tạm trú ở Vũng Tàu ngay, nếu có gì may ra anh còn có thể giúp đỡ.
Lòng Mạnh nóng như lửa đốt, một mặt chàng viết vài hàng dặn vợ con hãy ở lại Saigon chờ chàng về và nhờ một vị dược sĩ đi công tác Saigon đem đến tận nhà, mặt khác chàng làm đơn xin phép tư lệnh về thăm gia đình để thu xếp công việc từ 26/4 đến 28/4/75. Rất may lúc đó có một toán thứ hai gồm các sĩ quan từ Saigon ra An Thới để tăng cường cho trại tỵ nạn, nên Tư lệnh sẵn sàng cho những sĩ quan đợt đầu như Mạnh, trung tá Bích và cùng một số anh em khác được về thăm gia đình trong hai ngày.
Về saigon Manh chỉ đủ thì giờ xin phép ông bà già được đem vợ con ra Phú Quốc với lý do thời thế lộn xộn nên chồng đâu thì gia đình đó, đồng thời dặn vợ đến Bộ y tế xin nghỉ vài tuần để thăm chồng ở xa, riêng chàng lên Bộ xã hội xin phương tiện di chuyển bằng Hàng Không Việt Nam.
Tất cả đúng như Mạnh đã dự trù: 12 giờ trưa ngày 28/4/75 chàng cùng vợ đang có bầu cháu thứ hai độ vài tháng, và đứa con trai đầu mới lên ba đặt chân xuống phi trường An Thới như đã nói trên, chàng cảm thấy lòng nhẹ nhõm, với ý nghĩa sau này có mệnh hệ nào mà phải chết chung thì cũng sướng lắm rồi!
Trung tá Bích về trở lại An Thới với đầy đủ vợ con và thêm mấy người em vợ, đông hơn gia đình Mạnh nhiều, nên hai người đã tách ra tạm trú ở hai trailer khác nhau.
Mạnh tiếp tục lên trại tỵ nạn làm việc hàng ngày, xem như không có chuyện gì xảy ra, ban đêm về với vợ con trong trailer chật chội, nóng bức nhưng lại thấy ấm áp và an toàn hơn mấy ngày trước đây ở Saigon có đầy đủ tiện nghi bên gia đình vợ. Vợ Mạnh lần đầu tiên phải xa gia đình, tiếp xúc cuộc sống dã chiến, nhưng không một lời than vãn, tình yêu quả kỳ diệu thật!
Đêm 29/4/75 sau khi họp ở Bộ chỉ huy không nghe Tư lệnh V4/ZH ban chỉ thị nào cả, Mạnh về phòng mệt quá nên đi ngủ sớm chẳng biết trời đất là gì. Sáng sớm dậy sửa soạn đi làm việc như thường lệ, thì vợ chàng hỏi:
- Không biết khuya hôm qua đã có gì xảy ra khác thường, vì em nghe tiếng chân người chạy rầm rập, tiếng máy tàu nổ và đèn phare từ tàu rọi vào bờ, anh có nghe thấy gì không" cả đêm em lo quá, nên không chợp mắt được.
- Anh xin lỗi ngủ mê nên không biết gì hết, nhưng nếu có biến cố gì xảy ra, anh nghĩ Tư lệnh sẽ thông báo cho tất cả mọi nhân viên dưới quyền biết. Em và con yên tâm đi, nếu có chuyện khẩn cấp, anh sẽ về ngay. Hiện giờ trên trại tỵ nạn, đồng bào đang cần sự giúp đỡ của anh. Mạnh cố gắng trả lời cho vợ yên tâm, rồi chàng vội vàng đội mũ ra đi.
Sáng sớm ngày 30/4/75 chàng lên trại tỵ nạn, nhưng đầu óc vẫn còn quây quần vì câu hỏi của vợ không lâu trước đây. Chàng chưa bao giờ thấy mình bất lực như thế này: mang danh là một sĩ quan Hải quân, nhưng trên tay không có một tất vũ khí để tự vệ khi cần, dưới tay không có ai giúp đỡ, không có một phương tiện nào hết kể cả cái radio để theo dõi tin tức hàng ngày. Chàng như người sĩ quan hải hành trong đêm tối mà không có hải đồ, la bàn, radar và cả máy truyền tin để liên lạc.
Đến khoảng 10 giờ sáng, tất cả anh em được lệnh tập họp về Bộ chỉ huy để nghe Tư lệnh ban chỉ thị khẩn cấp. Như vậy những điều vợ chàng nghe đêm qua có lẽ đúng rồi! chàng tự trách mình vô tâm, lần sau nên cẩn thận hơn. Khi Mạnh trở về bộ chỉ huy thì phòng hội đã chật ních các sĩ quan và đoàn viên. Đại tá tư lệnh nói vắn tắt vài lời:
- Sáng nay lúc 10 giờ, Tổng Thống Dương Văn Minh và Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu đã ra lệnh cho tất cả quân nhân phải bỏ súng xuống và đầu hàng. Đến giờ phút này xem như tôi không còn chỉ huy V4/ZH nữa, các anh em tùy tiện về với gia đình và muốn đi đâu tùy ý. Riêng tôi sẽ đi tìm tự do ở một nơi nào đó. Anh em còn thắc mắc nào nữa không" nếu không chúng ta giải tán và tự do vận chuyển.
Cả hội trường nhốn nháo độ vài phút rồi im bặt trong không khí nặng nề, chẳng ai buồn đặt câu hỏi, có lẽ họ đã đánh hơi từ đêm hôm qua. Mọi người rời phòng hội như đàn ong vỡ tổ mà không biết con ong Chúa đang ở đâu, mặc dầu vị tư lệnh vẫn còn sờ sờ ngồi đó. Giữa tiếng rú của xe hơi, xe gắn máy, đàn người hỗn độn chạy tứ tán như đàn gà, đàn vịt bị người ta săn bắt để đem ra chạy bán hay cắt tiết làm thịt. Ngoài cầu tàu tất cả chiến hạm biệt phái đều hụ còi tách bến, mỗi chiếc là ông vua nhỏ không còn theo lệnh ai nữa. mà lệnh của ai bây giờ" Chính vị Đại tá tư lệnh vừa tuyên bố không còn chỉ huy V4/ZH nữa và các anh em muốn đi đâu tùy ý đó sao" Đi đâu tùy ý, bằng phương cách nào đây trên một hòn đảo "chó ăn đá gà ăn muối" như thế này" Mạnh tự hỏi và bước đi như một xác không hồn! Về đến trailer tạm trú thì chàng thấy vợ đứng đón, mặt mày tái sanh, vừa khóc vừa nói với giọng run run:
- Mấy …anh lính …bảo… sao bà …không chạy đi…mà còn …chờ… đợi..gì nữa, trễ lắm rồi!
Chàng trấn an vợ, mặc dầu chưa biết phải chạy đi đâu bây giờ:
- Em hãy bình tĩnh, cố gắng thu xếp một ít quần áo cho em và con, mì gói và nước uống bỏ vào bị xách tay bằng vải có khi cần đến, rồi mình sẽ tính sau.
Trong lúc Mạnh giúp vợ sửa soạn các thứ cần thiết, đầu óc chàng xoay quanh câu hỏi: Đi đâu bây giờ" Chưa bao giờ chàng nghĩ chuyện phải bỏ nước ra đi, nên câu hỏi trên đã đến với chàng thật bất ngờ như tiếng sét giáng vào đầu. Chàng hiểu rõ thân phận của một sĩ quan biệt phái, dưới tay không có nhân viên, không có quyền, không có một phương tiện nào cả. Chàng như kẻ ăn nhờ ở đậu, dầu cho muốn chạy cũng không có cách nào để chạy. Nhưng nếu ở lại đây thì sẽ nhận lãnh những hậu quả như thế nào" Chàng là dân du học ở Mỹ mới về nước gần hai năm, chắc chắn bọn họ sẽ không tha thứ và có thể kết tội chàng theo CIA Mỹ ngụy để giết toàn bộ gia đình mà không sợ báo chí quốc tế dòm ngó, vì thật sự làm gì có cài báo chí đó ở trên hòn đảo bé nhỏ này. Chàng chết một mình thì cũng đành, vì là kẻ thù của họ, nhưng bắt vợ con chàng phải chết theo thì oan và tội nghiệp quá! Mạnh đang bước đến con đường cùng rồi, không còn lựa chọn nào khác. Người xưa vẫn thường nói "cùng thì tắc biến" vậy biến thế nào đây" Một ý nghĩ chợt thoáng nhanh qua đầu chàng "đã ăn nhờ ở đậu, tại sao không sang căn cứ yểm trợ của trung tá Cơ khí Thao, một sĩ quan đàn anh mà chàng chẳng hề quen biết, dầu sao còn nước thì còn tát". Khi vợ chàng sửa soạn xong đồ đạt, chàng đưa gia đình qua căn cứ yểm trợ gần đó độ vài trăm thước. Trung tá Thao cùng vợ con và một số sĩ quan, nhân viên độ mười mấy người đang bình tĩnh ăn cơm trưa như chẳng có chuyện gì trọng đại xảy ra. Gia đình bé nhỏ của Mạnh vẫn kiên nhẫn ngồi nhìn gia đình trung tá Thao ăn cơm một cách ngon lành và thoải mái, mặc dầu chàng biết vợ con mình hiện đang đói meo vì từ sáng đến trưa chưa có một hột cơm vào bụng, nhưng không còn cách nào khác hơn là giữ thái độ của kẻ "ăn nhờ ở đậu".
Cuối cùng thì tiệc cũng tan và dưới cầu tàu đã thấy một LCM8 nổ máy sẵn sàng, lúc đó khoảng 1 giờ chiều ngày 30/4. Tất cả gia đình vị chỉ huy trưởng căn cứ yểm trợ hình như đã chuẩn bị hành lý sẵn sàng từ mấy ngày trước, vì người nào cũng tay xách samsonite lớn như sắp đi du lịch nước ngoài, từ từ xuống cầu tàu để lên LCM8. Gia đình Mạnh lặng lẽ đi theo sau cùng. Chiếc LCM8 vừa tách bến độ 5 phút lại cặp vào cầu tư lệnh V4/ZH, toàn bộ của gia đình tư lệnh cũng trang bị samsonite nặng ký như gia đình trung tá Thao, vừa chuyển lên xong là tàu quay mũi ra khơi. Tàu chạy độ 20 phút thì xa xa đã thấy một thương thuyền lớn màu đỏ xậm loại cargo neo như đang chờ đợi ai. Khi đến gần chiếc thương thuyền Mỹ, thì đã có nhiều người từ khác tàu nhỏ và ghe đậu quanh một chiếc xà lang lớn đang chờ để được bốc lên tàu bằng hệ thống cần trục, vì boong tàu buôn quá cao. Lính thủy quân lục chiến Mỹ giúp đỡ đưa từng toán vài người kèm theo hành lý vào dưới bọc hàng đặt trên xà lang, rồi từ đó cần trục sẽ câu lên boong thương thuyền. Gia đình trung tá Thao sẽ được bốc lên trước, kế đến sẽ là gia đình của đại tá tư lệnh, nếu mọi việc thuận buồm xuôi gió. Biển lúc đó bắt đầu động mạnh, nên việc câu người và đồ đạt lên tàu rất khó khăn, chạm chạp. Thêm vào gia đình nào cũng muốn dành được bốc lên trước cho chắc ăn, số người trong bờ đổ ra bằng ghe mỗi lúc một đông nên sinh ra một cảnh giành giựt hỗn độn và kinh hoàng không thể tả, có lẽ còn khủng khiếp gấp mấy lần cảnh di tản trong phim Titanic khi tàu bị gãy đôi. Mạnh đã chứng kiến một vị linh mục trẻ leo được lên tàu bằng thang dây, sau đó đã bắt loa xuống kêu gọi đồng bào một cách đầy tự tin:
- Xin đồng bào bình tĩnh, hãy để cho đàn bà và con nít lên tàu trước, sau đó đến quý vị nam giới, tàu hứa sẽ bốc hết tất cả, quý vị đừng lo!
Lời nói của vị chủ chiên xem ra chẳng có hiệu nghiệm mấy, bởi vì bản tính của đồng bào mình là "ăn chắc mặc bền" trước đã, dù ai muốn nói gì măc kệ. Gia đình vị tư lệnh cũng cố gắng chen lên để được bốc sớm như mọi người, nhưng phần thì biển động quá mạnh, phần vì nhiếu hành lý samsonite nặng nề, nên cũng đành bó tay đầu hàng. Mạnh thấy họ bắt đầu rút lui và nhảy lên tàu nhỏ PCF, sau này nghe nói một chiếc hạm biệt phái đã đón gia đình của vị tư lệnh V4/ZH đưa sang Singapore, rồi cuối cùng mới đến Guam. Có vị con cái đã lớn, nhưng cũng tìm cách ẵm một em bé của ai đó để được Mỹ bốc lên tàu sớm. Vợ Mạnh bụng bầu, một tay cầm cháu nhỏ, tay kia xách bị vải quần áo, được một quân nhân thủy quân lục chiến đỡ lên xà lang để được bốc lên tàu. Chàng nhìn theo vợ con mà ứa nước mắt, không biết vì mừng hay tủi thân. Nếu chàng như những người khác chỉ cần bồng con lên là được lên tàu trước, nhưng lương tâm và tư cách một sĩ quan hải quân đã không cho chàng làm điều đó, vì biết các bà mẹ già và em bé còn cần sự chăm sóc hơn chàng nhiều. Mạnh đứng đó mà hầu như mất hết cảm giác, lòng dửng dưng chẳng biết muốn gì nữa.
Cảnh giành giựt chen lấn để được bốc lên tàu Mỹ kéo dài đến khoảng 6 giờ chiều, bỗng từ trong bờ một chiếc ghe chở một số người vận bà ba đen trang bị súng trường và đại liên tiến ra chiếc thương thuyền không rõ mục đích gì. Tàu Mỹ bắt đầu báo động, thuyền trưởng ra lệnh nhiệm sở kéo neo và cắt dây cột khỏi xà lan.
Chiếc LCM8 lúc rời cầu tư lệnh ban chiều chỉ chở độ 15-20 người, bây giờ đã có thêm vài trăm người đứng chới với nhìn thân nhân mình ở trên tàu Mỹ đang cao chạy xa bay vì sợ tấm thảm kịch trên tàu Miller ở Đà nẵng sẽ tái diễn (1). Họ đứng đó, miệng người nào cũng méo xệch, muốn nói mà không thốt ra lời. Chắc chắn thế nào cũng có một số người hối hận vì lỡ dại vì nghe lời vị Linh mục hứa sẽ bốc hết quý ông, nên không tranh giành lên trước, mặc dầu không phải lỗi của vị linh mục đó.

Chiếc tàu loại đổ bộ bị cắt dây, nên cứ lềnh bềnh trôi trên sóng nước vì hai máy đều bất khiển dụng. Lý do không hiểu tại sao, nhưng người hạ sĩ quan lái chiếc LCM8 ban chiều không còn nữa, có thể anh ta đã lên được tàu Mỹ, cũng có thể anh ta đã đi theo vị tư lệnh. Mọi người trên tàu cảm thấy quá mệt mõi sau nữa ngày vật lộn nên không còn ồn ào như mấy phút trước đây, mỗi người thu mình ở một xó tàu và theo đuổi ý nghĩ riêng tư. Riêng Mạnh thấy khát nước kinh khủng, cổ họng đắng chát, mấy chai nước mang theo cũng không còn, có lẽ đã rơi hết xuống biển trong lúc chen lấn. May lúc đó một anh hải quân đồng cảnh ngộ xuống hầm máy lấy ít nước đem lên cho Mạnh cùng nhấm nháp thật đầy tình người. Bụng đói cồn cào vì trưa nay chưa ăn chút gì, chàng lụt lạo khắp người may ra tìm ít mì gói đã lận trong áo trước khi rời trailer tạm trú, nhưng như mò cua đáy biển. Đêm nay trăng trên biển thật sáng, nhưng chẳng ai còn lòng dạ để ngắm trăng. Tàu vẫn trôi bồng bềnh về hướng Bắc đảo Phú Quốc, lúc đó độ 10 giờ đêm. Chàng suy nghĩ miên man: Với hướng gió và sóng này thì sáng sớm mai tàu sẽ đến bắc đảo, đây là chiến khu của Việt cộng. Rốt cuộc rồi cũng bị VC bắt, hay chết đói chết khát trên biển, phải chăng cuộc đời mình sẽ chấm dứt tại đây" Mạnh đề nghị với một số anh em còn lại, mượn đèn bấm của ai đó trên tàu và xuống hầm máy câu bình thử, vô lý ngồi chờ chết! Nói là làm, các anh xuống ngay hầm máy nhờ mượn một đèn pin của một đồng bào cẩn thận mang theo. Sau đó 10 phút chàng nghe thấy tiếng máy nổ vang lên thật dòn, tất cả mọi người đều reo lên vui vẻ như vừa thoát cảnh địa ngục. Anh em hải quân cho biết chỉ còn một máy khiển dụng, nước biển đang từ từ vào hầm máy. Anh lái tàu hỏi: Bây giờ quý vị muốn đi đâu" Mọi người nhao nhao cho ý kiến, người đề nghị đi Thái Lan, người đề nghị sang Camnodge, riêng Mạnh đề nghị trở về An Thới trước rồi hạ hồi phân giải vì ai cũng đói và khát nên cần kiếm thực phẩm cùng nước uống cho cuộc hành trình dài, hơn nữa còn phải sữa chữa tàu trước khi ra khơi lại. Đa số đồng ý trở về An Thới, nên tàu chuyển hướng vào bờ.
Chiếc LCM8 cặp cầu căn cứ yểm trợ V4/ZH lúc 1 giờ sáng ngày 1/5/75. Một vài nhân viên ở trần đi lang thang hóng mát trên cần tàu, lá cờ vàng ba sọc đỏ vẫn còn bay phất phới trên kỳ đài căn cứ. Vừa rời khỏi tàu, người đầu tiên Mạnh gặp là trung tá Hậu, căn cứ trưởng kiêm trại trưởng tỵ nạn An Thới, trung tá còn là bạn với anh chàng. Oâng nói với Mạnh như trút hết tâm sự từ mấy ngày nay mà không có ai để thổ lộ:
- Ê Mạnh, mấy ngày hôm nay tao kẹt quá! Nhân viên căn cứ cho biết nếu tao đi thì chúng sẽ bắn vì tao là sĩ quan thâm niên hiện diện, trong khi đó bà xã cũng dọa nếu tao không đi thì bà cũng sẽ dùng súng M16 bắn các con rồi tự tử theo luôn. Tao đang ở trên đe dưới búa, vả lại hiện giờ chẳng còn phương tiện nào cả. Vậy mày định đi lại nữa không"
- Anh yên chí! Chúng ta còn chiếc LCM8 này. Đầu tiên nhờ anh cho nhân viên xuống sửa hai máy và làm sao đừng cho nước biển vào hầm máy. Sau đó chúng ta sẽ khởi hành càng sớm càng tốt.
Mạnh vẫn thường gọi bạn của ông anh bằng "anh" mặc dầu họ trước chàng đến mấy khóa. Lời nói của chàng như cỡi tấm lòng trung tá Hậu, ông liền nói:
- Mày khỏi lo điều đó. Ngoài ra tao cũng liên lạc được với trung tá Nhu, hạm trưởng HQ 504, sẽ đón chúng ta.
- Anh cho biết ngày giờ và điểm hẹn, chúng ta sẽ đến đó. Bây giờ tôi phải kiếm cái gì ăn, cả ngày chưa có hột cơm trong bụng.
Trước khi rời cầu, Mạnh không quên mời đồng bào xuống tàu cho đỡ tù túng vì tàu đang sữa chữa nên không thể chạy được, nhưng chẳng có ai hưởng ứng. Kinh nghiệm chiều hôm qua đã dạy cho họ không còn tin ai nữa trong giờ phút 25, do đó không nên rời tàu lúc này là phải, chàng thông cảm với họ. Vào phòng ăn sĩ quan của căn cứ thì gặp ngay người bạn cùng khóa đang ngồi mặt mày buồn xo. Mạnh hỏi bạn có định đi không thì được trả lời bằng cái lắc đầu. Bạn Mạnh là một trong những sĩ quan ra An Thới chưa đầy tuần lễ và còn kẹt gia đình ở Saigon, nên lòng nào mà ra đi một mình! Mạnh tôn trọng sự im lặng của bạn bè, không hỏi thêm một lời nữa, đến tủ lạnh tìm kiếm vài thức ăn nhét vào cho đầy bụng, sau đó tìm gặp Trung tá Hậu để rõ thêm tình hình. Anh cho biết 8 giờ sáng hôm nay sẽ có lễ bàn giao căn cứ cho một trung sĩ hải quân đang là nhân viên của anh mang quân hàm cấp tá cho VC. Khoảng 3 giờ sáng, anh thông báo tàu đã sửa xong, và hạm trưởng HQ504 hứa sẽ đón gia đình anh lúc 5 giờ 30 sáng gần hòn Poulo Panjang. Mạnh giúp đưa gia đình trung tá Hậu xuống tàu nhập chung với số đồng bào còn kẹt từ chiều hôm qua, tổng số trên dưới 250 người, ngoài ra không thấy có thêm sĩ quan hay đoàn viên nào muốn đi theo nữa, chàng cho tàu khởi hành ngay trước khi trời sáng.
Vào lúc 5 giờ 30 sáng, trung tá Hậu đã liên lạc được với HQ504, hiện đang ở tại điểm hẹn. Hạm trưởng yêu cầu chiếc LCM8 của Mạnh không được đến gần, ngừng máy cách xa chiến hạm vài trăm yards, hạm trưởng sẽ đưa thuyền đến đón. Tàu Mạnh ngừng máy đợi, thì một thuyền nhỏ từ HQ504 cặp vào chỉ đón gia đình trung tá Hậu rồi trở về, không một người nào trên LCM8 được phép lên thuyền. Tất cả những người còn lại trên tàu linh cảm hạm trưởng HQ504 không muốn bốc họ vì một lý do nào đó.
Kinh nghiệm đau thương chiều hôm qua còn nhức nhối, làm sao quên được! Mạnh bất chấp lệnh của hạm trưởng, yêu cầu nhân viên lái chiếc LCM8 đến cặp hông HQ504 và cho tất cả đồng bào nhảy lên boong chiến hạm trong chớp nhoáng. Lúc đó gia đình trung tá Hậu vẫn chưa lên được vì thuyền thấp nên phải leo thang dây rất chậm mới đến được sàn tàu. Sau khi chuyển xong hành lý của gia đình trung tá thì trời cũng vừa sáng, giờ phút này những người kém may mắn ngày hôm qua mới thở phào nhẹ nhõm vì biết mình còn có cơ hội thấy mặt vợ con hay thân nhân đang ở trên thương thuyền Mỹ. Mạnh lên đài chỉ huy gặp hạm trưởng đươc ông cho biết sự thật: Ông chỉ có ý định đón gia đình trung tá Hậu, đàn anh của hạm trưởng và cũng là hàng xóm trong cư xá hải quân Cửu Long, ông không muốn đón thêm bất cứ người nào nữa vì chiếc hạm dự định đi Pháp nên sợ không đủ thực phẩm và nước ngọt. Ông cũng cho biết chiến hạm HQ504 là chiếc cuối cùng trong hải đội rời Saigon. Thật hú vía cho Mạnh và những người kẹt lại trên chiếc LCM8 ngày hôm qua! Bây giờ ông quyết định sẽ nhập vào hải đội di tản của hải quân VN để đến Subic Bay, Phi Luật Tân, chứ không đi Pháp như dự định ban đầu. Ông cũng ra lệnh cho bất cứ sĩ quan và đoàn viên nào muốn trở về đất liền thì hãy xuống chiếc LCM8 của Mạnh để lại, đồng thời gom góp được một số tiền VN khá lớn của đồng bào quá giang trên chiến hạm đem phân phát cho họ làm lộ phí. Một số mười mấy anh em HQ504 quyết định trở về để đoàn tụ với gia đình, như thế người ra đi và kẻ ở lại đều không ân hận.
Dương vận hạm HQ504 trực chỉ Subic Bay, đến hải phận quốc tế đã được một chiến hạm của hạm đội 7 Hoa Kỳ tiếp tế dầu nhớt và thực phẩm. Khi hai tàu vào vị trí song hàng, Mạnh nhận ra một vị sĩ quan chiến hạm Hoa Kỳ đang đứng điều khiển việc tiếp tế, anh ta là bạn cùng lớp với Mạnh lúc học chương trình cao học (master) tại trường Đại Học Naval Postgraduate School ở Monterey California. Anh ta cũng nhận ra Mạnh, nên hai người chào nhau bằng cách đưa tay lên vẫy vẫy. Mọi người trên hai chiến hạm thấy cảnh này cũng ngạc nhiên không ít. Ra trường tháng 6/ 73, Mạnh đươc thuyên chuyển về TTHL/HQ/NT với chức vụ trưởng phòng điều hành huấn luyện và làm giáo sư Toán cho Đại Học Cộng Đồng Duyên Hải Nha Trang, còn người bạn Mỹ được đổi lên tàu tiếp tế thuộc hạm đội 7. Nay gặp lại nhau trong hoàn cảnh này thật là hy hữu, làm sao chàng không mừng! Mạnh lấy ra mấy chục ngàn bạc VN loại tờ 500 đồng mới toanh còn lại trong túi gửi sang tặng anh bạn để làm kỷ niệm, vì nghĩ có giữ lại cũng vô dụng. Sau đó anh bạn gửi qua Mạnh một phong bì nhỏ dặn cất đi. Khi về phòng Mạnh mở ra thấy một lá thư chúc chàng may mắn trong cuộc sống mới kèm theo 100 Mỹ kim. Chàng thật cảm động vì sự giúp đỡ bất ngờ của người bạn học cũ, thông cảm hoàn cảnh hiện tại của chàng. Chàng biết rõ số tiền mặt này khá lớn đối với một sĩ quan Mỹ đang công tác trên biển. Ở đời có những điều mình không biết trước được, trong cái rủi vẫn có cái may, vẫn còn niềm vui. Lên HQ504 chàng nghĩ mình sẽ như tất cả mọi người quá giang khác trên chiến hạm, nghĩa là không hưởng một đặc ân nào. Thế nhưng khi gặp lại một vài sĩ quan chiến hạm thuộc khóa đàn em mà chàng đã từng huấn luyện họ ở Nha Trang, các anh đã đối xử với chàng đầy tình nghĩa thầy trò lúc chàng thất thế. Chàng được tạm trú trong phòng ăn sĩ quan cũng như được cung cấp khẩu phần mỗi bữa, điều mà chàng sẽ không bao giờ quên. Đây là cái may mắn thứ hai đối với Mạnh trong thời gian di tản trên Dương vận hạm HQ504. Chàng muốn nhắc ra đây để tri ân các bạn đó.
Tàu tiếp tục hải hành theo lộ trình hàng một, bỏ lại đằng sau nước Việt thân yêu xa dần. Ban ngày trời nắng trong xanh, mặt biển êm như mặt hồ, Mạnh thường lên sân thượng một mình sau đài chỉ huy mặt hướng về đất mẹ để nhớ lại những kỷ niệm vui buồn trong đời binh nghiệp mà nay chỉ là mây khói. Ban đêm trăng đại dương đẹp lồng lộng soi rõ hai vệt nước đàn sau lái tàu, giờ này không biết vợ con đang ở đâu, lênh đênh trên biển hay đã vào đất liền" Vợ chàng chưa bao giờ xa nhà một mình trên đất lạ, nhất là bụng mang dạ chửa với con dại, vả lại không quen biết ai thì làm sao xoay sở đây" Chàng cầu nguyện Bồ Tát Quan Thế Âm độ trì cho vợ con đươc bình yên…Sang đến chiều ngày thứ tư, tàu đến vịnh Subic, một căn cứ của hải quân Mỹ ở Phi Luật Tân không xa lạ gì đối với Mạnh, vì chàng đã từng ở đây cả tháng trời trong thời gian trên chiến hạm Hoa Kỳ 1964. Lúc tàu tiến vào vịnh, một sĩ quan hải quân Mỹ lên tàu yêu cầu hạm trưởng hạ quốc kỳ Việt Nam xuống. Tất cả mọi người trên boong tàu đều đứng dậy nghiêm chỉnh hướng về quốc kỳ và hát bài quốc ca Việt nam trong nước mắt nghẹn ngào, khi lá cờ vàng ba sọc đỏ hạ xuống từ từ. Đồng bào ý thức rằng đây là lần cuối cùng được nhìn thấy lá cờ tượng trưng cho tổ quốc thân yêu, chưa biết bao giờ có ngày trở lại. Sao đó cột cờ đã được thay thế bằng lá cờ Hoa Kỳ, và hạm trưởng trao lại quyền chỉ huy cho vị sĩ quan Mỹ, đến đây xem như thủ tục bàn giao chiến hạm đã hoàn tất. Khi tàu cặp bến, Mạnh theo đoàn người rời chiến hạm và qua các thủ tục giấy tờ nhập cảnh, rồi được đưa lên một thương thuyền lớn của Mỹ loại chở hàng hóa để khởi hành đi Guam ngay tối hôm đó.
Chỗ tạm trú của họ là những hầm chứa hàng rộng rãi trên thương thuyền. Mỗi gia đình cố gắng tìm một chỗ yên thân, không còn nghĩ đến sự khác biệt về gia cảnh hay cấp bậc trước đây vài giờ, vì từ nay tất cả đều là dân tỵ nạn. Sinh hoạt của họ đều ở dưới hầm tàu, chỉ khi cần lãnh thức ăn, nước uống, hít thở chút không khí hay đi vệ sinh thì mới lên boong chính. Mỗi khoang tàu cử vài đại diện đi lãnh phần ăn rồi về phát lại cho từng người hay từng gia đình. Mạnh tình nguyện làm việc này vì không bận thê nhi. Phòng vệ sinh dã chiến được đóng bằng vài tấm gỗ và gắn trên boong chính đưa ra ngoài hai bên hông tàu. Những người sợ độ cao và hay chóng mặt có thể xử dụng loại nhà vệ sinh này nhất là khi tàu đang chạy với tốc độ từ 15-20 hải lý một giờ, gió thổi phần phật như muốn tạt mình xuống biển mà căn nhà nhỏ bé thì cứ rung lên. Phần ăn cho mỗi người là một ration C của các quân nhân Mỹ thường dùng khi tham chiến ở VN gồm có: thịt hay cá hộp, bánh mì hộp, kẹo chocolate hay chewing gum, thuốc lá và cà phê, thỉnh thoảng có thêm trái cây tươi như táo và cam….Nhờ đi phân phát thực phẩm, Mạnh biết được một số sĩ quan đàn anh như Đại tá Khương, cựu chỉ huy trưởng TTHL/HQ/NT và một số bạn bé cùng khóa như Bảo, Lộc hiện đang tạm trú trên thương thuyền. Nhìn ông bà cựu đại tá ngồi thu mình im lặng vào một góc hầm, vẻ mặt thật buồn bã, lòng Mạnh không khỏi ái ngại khi phát khẩu phần cho gia đình vị niên trưởng. Mạnh vẫn không quên ơn vị niên trưởng này trong thời gian chàng giữ chức vụ hiệu trưởng trường SQHQ năm 1969-1970 tại Nha Trang. Trước khi du học Hoa Kỳ độ vài tháng, Mạnh quyết định cưới vợ và xin phép vị chỉ huy trưởng tổ chức tiệc cưới ở quân trường. Đại tá Khương đã vui vẻ chấp thuận và còn cho ban nhạc của SVSQ giúp vui trong đêm đó, một điều mà chưa có sĩ quan nào được làm trước đây. Chàng đã mời ông bà chỉ huy trưởng ra khai mạc dạ vũ để mừng vợ chồng chàng. Mặc dầu dặn lòng đừng say đêm nay, nhưng rốt cuộc Mạnh vẫn bị gục ngả sau khi đưa bà xã về đến cư xá, chỉ vì không thể từ chối ly rượu chúc mừng của vị niên trưởng và các bạn bè. Mỗi sáng sớm tinh sương, bộ ba Bảo, Lộc và Mạnh lên boong tàu ngồi hút thuốc vừa nhâm nhi chút cà phê dã chiến, kể lại cho nhau nghe những gì đã xảy ra ở đơn vị mình trong giờ phút 25. Lộc là người kém may mắn nhất vì bà xã và bé gái còn kẹt lại Saigon, anh ra đi theo đơn vị ở xa nên không kịp liên lạc mà lòng thì nặng trĩu với gia đình. Mạnh và Bảo chỉ biết an ủi Lộc và khuyên anh sang Mỹ trước đã rồi hãy tính chuyện cứu vợ con sau, vì tình hình VN lúc đó tranh tối tranh sáng, không thể tin CSVN được. Mạnh còn may mắn hơn Lộc nhờ biết chắc vợ con đã lên được tàu Mỹ, nhưng cũng thấy buồn vì không biết giờ này vợ con chàng đang ở đâu, Guam, Wake hay California"
Sau gần một tuần hải hành trong thời tiết thuận lợi, cuối cùng thì chiếc thương thuyền cũng đã cặp bến Guam cũng vào một buổi sớm tinh sương trong sự mong đợi của mọi người để được lên bờ hít thở không khí tự do càng sớm càng tốt. Sau khi thông qua các thủ tục giấy tờ, họ được đưa đến trại Orote Point bằng xe bus cách đó vài chục dặm. Đây là trại được thành lập trước ngày Saigon rơi vào tay CS Bắc việt, để đón những người Việt tỵ nạn đầu tiên gồm khoảng vài trăm gia đình, có người làm việc cho Hoa Kỳ được đưa sang bằng máy bay. Trại gồm các lều vải quân đội đóng trên một khu đất rộng gần bờ biển, mỗi lều chứa độ khoảng 20 người. Lúc Mạnh đến đã có hàng ngàn người tỵ nạn đang sống ở đây. Sau khi cất hành lý vào lều, chuyện đầu tiên Mạnh phải làm là đến bộ chỉ huy trại để dò hỏi tin tức gia đình. Chàng cho họ biết tên tàu và tên tuổi vợ con và yêu cầu họ cho biết tàu đã đến Guam chưa, đến ngày nào và hiện gia đình chàng đang ở đâu" Sau hơn nữa giờ chờ đợi, họ nói chỉ biết tàu đã đến Guam hơn một tuần nay, nhưng không biết vợ con chàng ở trại này hay đã dời sang trại khác để đi sang Mỹ, vì người tỵ nạn ra vào mỗi ngày quá đông nên họ không nắm vững tình hình. Mạnh vội chạy sang khu Hồng Thập Tự quốc tế với hy vọng họ có danh sách cập nhật những ngày trước đây. Sau những phút chờ đợi dài bằng cả thế kỷ, vì đây là niềm hy vọng cuối cùng có thể tìm ra dấu vết vợ con, họ trả lời không khác gì bộ chỉ huy trại và đoán rằng gia đình chàng có thể sang California. Nếu điều này đúng thì lại càng khó khăn hơn cho Mạnh trong việc tìm kiếm vợ con. Lòng đầy thất vọng và buồn vô hạn, chàng chẳng biết trách ai đây mà chỉ trách cho số phận đầy trắc trở của mình. Chàng đi lang thang từ trại này sang trại khác, hỏi thăm những người đã đến trước may ra tìm thấy dấu vết vợ con, dầu biết hy vọng rất mong manh vì có cả mấy trăm lều trên một khu rộng mênh mông. Đến đâu chàng hỏi, đều được trả lời bằng cái lắc đầu, họ nhìn chàng đầy vẻ thương hại nhưng chẳng giúp được gì. Chàng vừa đi vừa niệm danh hiệu "Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát" qua không biết bao nhiêu lều trại, nên lòng đã thanh thản trở lại. Khi mặt trời vừa đứng bóng, Mạnh cảm thấy mệt nhoài và bắt đầu tức tiểu, chàng bèn tìm nhà vệ sinh dã chiến hầu xổ bớt "bầu tâm sự" để rồi còn tiếp tục tìm kiếm vợ con. Chàng nghĩ mình vẫn còn may mắn hơn nhiều người khác, nên chàng vẫn còn hy vọng. Khu vệ sinh đây rồi! có độ 10 nhà vệ sinh đặt rãi rác hai bên lối đi, mùi a mô nhắc khai nồng khó chịu hắt lên tận mũi Mạnh dưới cái nắng hè gay gắt. Vì nhu cầu thúc bách, chàng phải chọn ngay một cái không có người xử dụng và sắp mở cửa thì một hàng chữ nghệch ngoạc bằng than được viết ở phần trên nắp cửa đập vào mắt chàng "Tìm anh Lê Văn Mạnh, khóa đệ I Song Ngư. Kim Cúc và con hiện ở lều số 13" Mạnh tưởng mình đang nằm mơ, nên đọc đi đọc lại hàng chữ trên nhiều lần cho chắc ăn 100% rối ba chân bốn cẳng chạy đi tìm lều số 13 mà quên đi việc phải "xổ bầu tâm sự".
Thật oái oăm thay! Lều 13 gần ngay cạnh bộ chỉ huy, nhưng vài giờ trước chàng hỏi thì chẳng ai biết vợ con ở đâu. Chàng bước vào lều buổi trưa vắng lặng như tờ, có lẽ mọi người đang lo sắp hàng lãnh phần ăn ở nhà bàn. Mạnh thấy đứa bé trai độ 3 tuổi mặc áo T shirt rằn sọc xanh nước biển, đầu đội mũ thủy thủ màu trắng, ngồi xây lưng về phía chàng và đang chơi một mình trước lều. Nhìn dáng dấp, Mạnh biết ngay là đứa con thương yêu của mình, nên chàng nhẹ nhàng ôm chầm lấy bé từ phía sau lưng cốt để gây một sự bất ngờ. Em ngỡ ngàng quay lại nhìn Mạnh râu ria xồm xoàm, chưa biết ai đây mà sao mĩm cười thân mật với mình, nhưng một phút sau em ôm chặt lấy cổ mạnh và reo lên:
- Ba !!! Ba đã về!!Má
Vợ chàng nghe tiếng con vội vàng bước ra, vừa đúng lúc chàng bồng con vào lều,nàng khựng lại khoảnh khắc rồi ào đến ôm chầm lấy Mạnh và con nói trong nước mắt nghẹn ngào:
- Anh!!!em tưởng sẽ chẳng bao giờ gặp lại anh!!!
- Em! Anh nhớ em và con vô vàn!! Tiếng chàng thật êm dịu bên tai nàng.
Chàng và nàng bốn mắt nhìn nhau với nụ cười rạng rỡ trên môi nói lên biết bao hạnh phúc tưởng chừng đã mất nay tìm lại được. Niềm vui vỡ òa trong sự vắng lặng của buổi trưa hè, có lẽ chỉ dành cho sự trùng phùng kỳ diệu của gia đình Mạnh mà không có bất cứ người nào ở cùng lều lúc đó chứng kiến. Ngoài kia sóng biển rì rào như chung vui cùng ba người hạnh phúc nhất đời…Đâu đây văng vẳng tiếng thơ tán thán Mẹ Hiền Bồ Tát Quan Thế Âm:
Biển động tiếng triều vọng Phổ Môn
Chín hoa sen trắng hiện hài đồng
Cành dương một giọt mưa cam lộ
Gieo rắc mùa xuân khắp núi sông
Chánh Minh
Anaheim

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 833,319,896
Giải Thưởng Việt Báo Việt Báo
Giải Thưởng Việt Báo Việt Báo
Giải Thưởng Việt Báo Việt Báo
Giải Thưởng Việt Báo Việt Báo
Giải Thưởng Việt Báo Việt Báo
Giải Thưởng Việt Báo Việt Báo