Bài tham dự số 71\VBST
Sanh năm 1944. Đến Mỹ năm 80. Ngụ tại Westminster, CA
Đã hơn 20 năm tôi đến sinh sống trên đất Mỹ. Nhưng tôi biết, tôi sẽ không bao giờ quên được những giây phút đầu tiên, lúc tôi vừa xuống máy bay, chân tôi thật sự đặt trên một xư sở mà lúc xưa tôi chỉ coi là một nước trong câu chuyện thần tiên. Đó là đêm 9 tháng 4/1980.
Chiếc máy bay khổng lồ, vào gần 10 giờ đêm đó, đã đưa đám đông hành khách tạp chủng, trong đó có tôi với chừng mươi người VN nam nữ lớn bé tị nạn khác, đáp trạm sau cùng xuống vùng đất này.
Tôi, một thân một mình, tấp tểnh bước thấp bước cao, trà trộn trong đám người vừa rời khỏi cánh cửa phi cơ, trên tay xách lủng lẳng cái túi nylon có in đậm nét nhãn hiệu và danh xưng của Cao Ủy tị nạn, bên trong đựng vài món đồ tế nhuyễn mà tôi cố công "rê" suốt từ đảo Pulau Bidong qua đây làm... kỷ niệm.
Tới tận cửa phi trường đón tôi là người em trai út với một người con gái còn son trẻ, lại có chiếc răng khểnh trông rất... Việt Nam.
Trước kia em trai tôi là tên giặc lái. Tuy là em, cấp bậc, lon lá trong gia đình QLVNCH tuy nhỏ, nhưng hắn thức thời hơn tôi nhiều, nên đã nhanh chân lái máy bay sang Guam di tản hồi gần cuối tháng 4 năm 75, rồi đến Mỹ chẳng bao lâu sau đó và không biết từ lúc nào, hắn ráp nối tơ hồng với cô em này, tên là Lệ. Hai người chung sống xây dựng cuộc đời bên nhau nơi đất khách, đề huề như đôi vợ chồng, họ hoan hỉ bảo lãnh cho tôi sang Mỹ. Anh em ruột thịt lâu năm đoàn tụ, mừng mừng tủi tủi nói sao cho hết nỗi lòng. Hai đứa em (tôi coi Lệ cũng đều là người ruột thịt của tôi), đối xử với tôi bằng một tình cảm thân thương niềm nở, nhất là Lệ, em nói cười luôn miệng, thỉnh thoảng còn thêm dăm ba câu pha trò nghe ngộ nghĩnh hết sức, làm cho tôi ấm cả lòng.
Họ nhanh nhẹn dẫn tôi đến chỗ đậu một chiếc xe loại station wagon, dưới mắt tôi lúc đó, trông chiếc xe gồ ghề hết sức, tôi theo họ lên ngồi một mình nơi băng xe sau. Em trai tôi rồ ga phóng vút một cái đã nhập hẳn vào dòng xe cộ đang lao vun vút ngược xuôi trên bốn năm tuyến free-way rộng thênh thang, đan nhau qua lại, trên đầu dưới đất, tôi ngồi lõ mắt ra ngắm mà nghe... rờn rợn khắp người, rồi nghĩ thầm: "Đường xá chằng chịt xe cộ trông kinh khủng kiểu này, chắc tôi đành... chịu chết..."
Tuy tôi cố dấu kín cái mặc cảm "nhà quê" đó, nhưng chừng "đọc" được hết ý nghĩ chết nhát của tôi, cho nên em trai tôi "cảnh tỉnh":
- Lúc đầu nhìn thấy cảnh tượng xe cộ thế này, chắc anh... ớn lắm" Nhưng yên trí, rồi mọi việc sẽ quen. Tụi em hồi mới qua đây, ai cũng "rét" giống anh bây giờ. Nhưng mà đến lúc bắt buộc phải đối đầu với cuộc sống, "cỡ" nào mình cũng phải O.K hết!"
Chừng vài tháng sau, cuộc sống mới của tôi xem ra đã có chút ổn định về tinh thần, chỉ có nỗi buồn vương vấn vì xa nước nhớ quê, nên thường hay u sầu ray rứt. Thời gian 1980 chưa có dấu hiệu nào cho thấy những người Việt tỵ nạn có thể trở về thăm lại quê hương xứ sở như bây giờ.
Chuyện cấp thiết nhất, theo lời em trai tôi là :
- Bằng mọi giá, anh phải có cái bằng lái xe...
Lái một chiếc xe cho nhuần nhuyễn là việc... nhỏ, vì tôi đã từng lái xe trong quân đội. Nhưng điều khó nhất là tôi làm sao có thể nói chuyện trao đổi hoặc thông hiểu được hết các chỉ thị của viên giám khảo. Cuối cùng, sau có 3 lần thi không đủ điểm, lần thứ tư, tôi cũng được ông ta phê cho pass để vào bên trong chụp hình, mới có trong tay cái bằng lái xe hộ thân cho đến hây giờ.
Với sự giúp đỡ tiền bạc tận sức của hai em, rồi tôi cũng tậu được một chiếc xe cũ với giá ba trăm đô la lúc bấy giờ, chiếc xe màu xanh "lãng mạn", hiệu Con Bò Mộng "Maverick" trông cũng huê tình ra phết. Tôi phấn khởi như vừa mọc thêm đôi cánh, sẵn sàng đổ xăng cho đầy bình rồi thừa khi các em tôi bận đi làm hay lúc hai em đã ngủ kỹ, tôi lên xe tự tập lấy cách lái vào hoặc lái ra khỏi xa lộ.
Phương pháp này hiệu nghiệm và diễn ra tốt đẹp. Có lần, tôi chạy thật lâu, đã có đến mấy tiếng đồng hồ, xăng hết, xe tôi bị nằm đường. Một chiếc xe phú lít không biết ở đâu sáp ngay tới, chớp đèn sáng lòa.
Tôi ngồi thu mình nhỏ lại ra vẻ hiền lành trước tay lái để chuẩn bị trả lời những câu hỏi rất nghiêm nghị của ông cảnh sát giao thông, rằng tôi là người mới đến đây nên bị lạc đường. Hai ông cảnh sát biết tôi ngay tình, một ông bốc điện thoại đeo bên vai gọi báo cho em tôi biết về tình trạng "lạc lối" của tôi. Nhưng tôi nhanh trí khôn, chợt nghĩ đến cái tội chạy xe đến hết xăng mà không biết, tôi bèn xin phép được nói chuyện với em tôi bằng tiếng mẹ đẻ, cốt là để che dấu đi cái tội hết xăng, rất có thể sẽ bị phạt vì bất cẩn.
Chú em tôi bắt phone, giọng bực mình thấy rõ vì bị thằng anh cà chớn phá rầy giấc ngủ, nhưng hắn ôn tồn nói với viên cảnh sát rằng hắn sẽ đích thân đến hướng dẫn cho tôi lái xe trở về. Câu chuyện tuy chẳng có gì trầm trọng, cũng làm cho tôi thấy "quê" một cục mà cố tỉnh như ruồi.
Chẳng bao lâu, tôi đã lái xe khá rành rọt, và tôi hăng hái đi "apply job" ngay tức thì. May quá, có sẵn một công việc khá an nhàn do một vị giáo sư quen biết, đã tận tình giới thiệu, gởi gấm. Tôi cảm thấy tự tin với khả năng anh văn đọc sách báo khá "cao cấp" của mình, nhưng nghe Mỹ nói chuyện thì cứ y như vịt nghe sấm, cho nên tôi nghĩ rằng, chỉ việc đến nơi hẹn để thông qua một cuộc phỏng vấn ngắn gọn là xong. Tôi đinh ninh như vậy rồi yên tâm đợi ngày thông báo nhận việc. Nào ngờ, đến chiều tối hôm đó, vị giáo sư có tấm lòng vàng, nhiệt tình giúp cho tôi đi tìm việc làm, ông gọi điện thoại đến cho tôi:
- Sao kỳ cục vậy" Anh tự làm hỏng bét tất cả rồi...!
Tôi ngớ người ra, chưa hiểu ất giáp gì. Vị giáo sư nói tiếp, giọng hơi hơi giận :
- Người phỏng vấn đã kể lại cho tôi biết rằng mọi sự đều tốt, ngoại trừ việc hắn nghe anh khai nhiều lần lập đi lập lại, rằng anh đã đi tù tới cả mười hai năm ròng rã khi anh còn ở trong lính. Tại sao anh lại hăng hái khai ra việc này vậy"
Tôi định trí ôn lại toàn bộ cuộc phòng vấn diễn ra đầy "tinh thần cởi mở". Rõ ràng người phỏng vấn tôi rất niềm nỡ và lịch sự. Ông ta hỏi tôi câu nào, tôi "đối đáp" rành mạch dứt khoát câu đó, không có một trục trặc gì. Có điều là sau khi ông phỏng vấn tôi, ông ta có cái nhìn tôi hơi khác, ông bắt chặt bàn tay tôi với một nụ cười rất dân chủ, ông nói "thank you very much" khiến tôi càng cảm thấy tự tin, và ông ôn tồn bảo tôi hãy đi... về.
Sau này ôn lại chuyện cũ, mới hay rằng dạo đó, tôi quá giỏi anh ngữ đến nỗi hiểu sai hẳn câu hỏi của ông ta. Thật sự, ông ta đã hỏi tôi "có từng bị tù tội gì"" Không biết xui khiến thế nào, tôi lại hiểu là tôi có đi quân đội không" Vậy là tôi mới hăng hái ba hoa rằng tôi từng "phục vụ trong quân đội" (trong khi ông ta lại hiểu là tôi đi tù) tới... mười hai năm với bao nhiêu là thành tích.
Thế là tôi tiêu tùng một dịp may bằng vàng. Buồn quá, tôi chẳng biết than thở cùng ai, tiếp tục bầu bạn với cái xe cà khổ, lái chạy rông trên các nẻo đường cho vơi mối sầu... thất nghiệp.
Phải nói rằng lóng rày, tôi đã lái xe khá rành rọt như người cưỡi xe đạp. Những con đường vắng như đêm nay, tôi cứ an nhiên bẻ tay lái đổi từ hết lane nọ đến lane kia. Thật ra, cũng là cách để tôi tập "change lane" cho nó "vững" tay lái. Bất thình lình có một luồng ánh sáng từ phía sau rực chiếu vào bên trong chiếc xe tôi đang lái. Lại có cả ánh đèn mầu xanh xanh đỏ đỏ quay quay chớp chớp loạn đả tứ tung. Liếc nhìn vào tấm gương chiếu hậu, mới biết rằng, cảnh sát công lộ chiếu cố đến tôi. Tôi ngừng xe ngồi yên, hai tay để lên tay lái chờ đợi.
Một ông công lộ đặt sẵn tay trên báng súng, từ từ tiến lại xe tôi, trong khi ông một ông khác chĩa họng súng tiểu liên về phía tôi như sẵn sàng nhả đạn. Tôi hoảng quá, bấm bụng ngồi yên. Ông cảnh sát đứng trong thế tác chiến ngó tôi chăm bẳm, dõng dạc:
Càng sống lâu ở Mỹ, tôi càng rút tỉa thêm được nhiều bài học thấm thía về những giấc mộng vàng son, về tình người, tình bạn, tình yêu, về những cấu trúc bòn rút của cải, tài lực cực kỳ tinh vi, tinh vi đến độ ngày nay đã trở thành hợp lý và tất cả mọi người đều răm rắp tuân theo.
Cuối cùng, tôi mới nhận ra ý nghĩ một câu của Georghiu : "Không có gì bất hạnh hơn niềm bất hạnh của một con người không còn quê hương..."
Mong sao cho sớm được quay về với nguồn cội chân phương thuần khiết của mình, của quê hương Việt Nam bé nhỏ hiền hòa.
Nguyễn Phan Quang